phân tích nhớ khi giặc đến giặc lùng

Nhớ khi giặc đến giặc lùng Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây Làm sao quên được cái cảnh càn quét, săn lùng của kẻ thù như một bầy chó săn khát máu. Đã bao lần chúng tắm nhân dân ta trong những bể máu, trong tiếng kêu khóc đau thương dậy cả đất trời. Quân giặc tìm mọi cách đàn áp, khủng bố hòng làm nhụt chí vùng lên tự giải phóng của nhân dân ta. Wiki về Phân tích bài Việt Bắc học sinh giỏi (hay nhất) Phân tích bài Việt Bắc học sinh giỏi Nhớ khi giặc đến giặc lùng. Rừng cây núi đá ta cùng đánh tây. Núi giăng thành lũy sắt dày. Rừng che bộ đội rừng vây quân thù Tác giả không chỉ nhớ đến cảnh vật và con người Việt Bắc, quan trọng hơn nữa là ông nhớ những cuộc chiến tranh ác liệt gian khổ đã diễn ra: "Nhớ khi giặc đến giặc lùng. Rừng cây núi đá ta cùng đánh tây. Núi giăng thành lũy sắt dày. Rừng che bộ đội rừng vây quân Dịch Vụ Hỗ Trợ Vay Tiền Nhanh 1s. Văn mẫu phân tích Mở bài Tố Hữu là nhà thơ tiêu biểu của nền văn học Việt Nam và là nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Pháp của dân tộc. Thơ ông có sự hòa quyện mềm mại giữa yếu tố chính trị và yếu tố thơ ca, vì vậy tác phậm vừa đậm chất trữ tình lãng mạn, vừa có yếu tố chính trị. Những tác phẩm của ông chủ yếu viết về cách mạng, con người cách mạng. Trong đó, tác phẩm Việt Bắc tiêu biểu cho thơ của Tố Hữu, được sáng tác trong hoàn cảnh cơ quan của Đảng chuyển từ Việt Bắc về Hà Nội. Trong đoạn trích “Nhớ khi giặc đến giặc lùng… Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng” là khúc ca ân nghĩa qua khung cảnh hùng tráng của Việt Bắc được tác giả hồi tưởng đầy xúc động và ân tình. Thân bài Nhớ khi giặc đến giặc lùng Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây Núi giăng thành lũy sắt dày Rừng che bộ đội rừng vây quân thù Cả khổ thơ tái hiện hoàn cảnh chiến tranh vô cùng căng thẳng và đày khó khăn. Nhớ khi giặc đến giặc lùng – một cảm xúc bao trùm đoạn thơ là nỗi nhớ. Khác với những đoạn trước, nỗi nhớ tràn ngập yêu thương da diết và đều là những cảm xúc hạnh phúc, bình yên. Thì trong câu thơ này, nỗi nhớ mang âm điệu sôi sục của này kháng chiến. Thời gian chiến đấu khắc nghiệt, hình dung ra cảnh giặc lùng từng chiến sĩ, căng thẳng vô cùng. Có như vậy mới biết các chiến sĩ cách mạng gan dạ và phải chiến đấu anh dũng thế nào để thoát khỏi họng súng của kẻ thù. Điều đáng nói, khi giặc đến lùng thì từ con người đến thiên nhiên đều trở thành “thần hộ vệ” cho các chiến sĩ. Cả rừng cây, núi đá đều cùng các chiến sĩ cách mạng đánh giặc, núi thì giăng thành lũy sắt dày, rừng thì che cho bộ đội ẩn mình để chống giặc. So với những đoạn thơ trước, đoạn thơ đã tạo nên một âm điệu sử thi hào hùng. Cả quân và dân và thiên nhiên núi rừng như hòa vào với nhau, tạo nên một khối sức mạnh vô cùng vững chãi, đồng lòng đánh quân xâm lược. Thiên nhiên núi rừng Tây Bắc không hề vô tri vô giác mà vô cùng sống động, thể hiện sự gắn bó, đồng lòng, đoàn kết cùng con người Việt Bắc bảo vệ các chiến sĩ cách mạng, góp phần không nhỏ vào sự nghiệp giải phóng đất nước. Mênh mông bốn mặt sương mù Đất trời ta cả chiến khu một lòng Xem thêm Viết Về Kỳ Nghỉ Bằng Tiếng Anh Có Dịch ❤18 Đoạn Văn Hay Cả câu thơ mở ra một không gian vô cùng lớn, bốn mặt sương mù, sương giăng khắp nơi khiến cho khung cảnh mờ ảo và vô cùng hiểm nguy. Khung cảnh có phần uy linh nhưng cũng không kém phần lãng mạn. Hình ảnh “Mênh mông bốn mặt sương mù” cũng thể hiện sự phát triển của kháng chiến, chiến khu giải phóng ngày càng rộn lớn hơn. Đặc biệt, không chỉ thiên nhiên núi rừng mà ngay cả đất trời cũng đều là của ta, đều một lòng chống giặc. Hàm ý câu thơ thứ hai chính là khẳng định chủ quyền của vùng giải phóng. Sông núi này là của chúng ta, đất trời này là của chúng ta và thực dân Pháp đang xâm phạm chủ quyền cần phải đánh đổi. Cả hai câu thơ cũng thể hiện sự đoàn kết, cùng hướng về đất nước của dân Việt Bắc nói riêng và dân ta nói chung trong cuộc kháng chiến trường kì này. Ai về ai có nhớ không ? Ta về ta nhớ Phủ Thông, đèo Giàng Nhớ sông Lô, nhớ Phố Ràng Nhớ từ Cao – Lạng, nhớ sang Nhị Hà. Trong đoạn thơ này tác giả sử dụng câu hỏi tu từ, hỏi mà như không hỏi. Đọc qua thôi chúng ta cũng cảm nhận nỗi nhớ của người đi và kẻ ở. Các chiến sĩ cách mạng về xuôi không nguôi nhớ những người dân Việt Bắc đã bao bọc, cưu mang, che chở trong những năm gian khó. Và ngược lại, những con người Việt Bắc cũng không thể quên những người chiến sĩ cộng sản gan dạ, dám hi sinh vì tổ quốc. Sau câu hỏi tu từ là đại từ “Ta”, một đại từ thể hiện sự rộng lớn, đại diện cho một thế hệ, và khẳng định nỗi nhớ của Ta – những người chiến sĩ về xuôi dành cho đồng bào Việt Bắc là lớn lao, là cụ thể. Nhớ từ Phủ Thông đến đèo Giàng, từ sông Lo đến Phố Ràng, từ Cao lạng sang Nhị Hà. Nỗi nhớ trải dài khắp miền Việt Bắc, cho thấy một tình cảm thâm sâu và in đậm trong trí nhớ. Đây cũng là những địa danh ghi lại những chiến công hào hùng của dân tộc. Đó là sự kiện Phủ Thông – Đèo Giàng – nơi diễn ra các trận hồi đầu cuộc kháng chiến chống Pháp. Sông lô – phố Ràng nơi đánh tàu chiếm Pháp trong chiến dịch Việt Bắc và trận đánh đồn Phố Ràng. Riêng địa danh Cao Bằng, lạng sơn thì ta mở chiến dịch giải phóng biên giới Việt trung. Như vậy, trong nỗi nhớ còn chứa đựng niềm tự hào về những chiến công hào hùng, càng khẳng định vai trò của con người quan trọng biết nhường nào. Điệp từ nhớ nghe nhẹ nhàng mà sâu lắng, lúc trầm, lúc bổng, lúc mãnh liệt, và trong khổ thơ này đây nỗi nhớ là sự biết ơn đến những người đã hi sinh trong các trận chiến và sự tự hào về Việt Bắc – cái nôi cách mạng đã nuôi dưỡng những con người lý tưởng của Đảng. Những đường Việt Bắc của ta Xem thêm 5 đoạn văn mẫu miêu tả mùa hè bằng tiếng Anh – Thành Tây êm đêm rầm rập như là đất rung Sang khổ thơ tiếp tác giả đã mở rộng thêm không gian của Việt Bắc. Việt Bắc trở thành con đường cách mạng lí tượng, rộng thêm, dài thêm, và đêm đêm râm rập tiếng hành quân. Hai câu thơ cho thấy khí thế hào hùng làm rung chuyển đất trời, càng khẳng định sức mạnh của quân và dân ta trong cuộc kháng chiến, đã sẵn sàng bước vào trận chiến. Quân đi điệp điệp trùng trùng Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan Dân công đỏ đuốc từng đoàn Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay. Nghìn đêm thăm thẳm sương dày èn pha bật sáng như ngày mai lên. Qua khổ thơ chúng ta cảm nhận được một đội quân hùng dũng, đang bước đi thật đều với một tâm thế sẵn sàng bước vào chiến trận. Từ láy “điệp điệp trùng trùng” cho thấy những đoàn quan nối tiếp nhau tạo thành những đợt sóng trào kéo dài vô tận. Đặc biệt hình ảnh “ánh sao đầu súng” một hình ảnh gợi nhiều liên tưởng. Trong gian khó vẫn có sự lãng mạn, sự lạc quan ,tin tưởng vào tự do, vào tương lai. Hình ảnh này khiến chúng ta liên tưởng đến câu thơ “Trăng treo đầu súng” trong bài thơ đồng chí. Thiên nhiên đã đồng hành cùng chiến sĩ, ánh sao chính là lý tưởng soi sáng, mang đến tinh thần lạc quan, tràn đầy khí thế. Tiếp sang câu thơ sau chúng ta thấy được hình dân quân với những ngọn đuốc sáng bừng, soi đường, tiếp lương, tải đạn với đầy đủ già trẻ trai gái… Họ bước đi hiên ngang không sợ hãi, không chùn bước, hình tượng bước chân nát đá cho thấy sự dũng mãnh, khẩn trương, không nề hà gian khổ. Có thể nói đội dân quân hùng hậu cũng góp phần rất lớn vào sự đấu tranh giành độc lập của dân tộc. Xem thêm Văn mẫu lớp 8 Tập 2 Phân tích bài thơ “Nhớ rừng” của Thế Lữ Cả khổ thơ là sự hào hùng, khí thế, mạnh mẽ của quân và dân ta, vượt qua mọi khó khăn chông gai, sẵn sàng chiến đấu chống giặc. Tiếp sang hình ảnh của đoàn ô tô quân sự, xe kéo pháo, chở súng đạn, thuốc men lương thực rùng rùng ra trận. Trong đêm tối, ánh đèn pha chiếu sáng không chỉ xuyên thủng màn đêm mà còn soi sáng tư tưởng xuyên qua những đêm dài tăm tối. Câu thơ “nghìn đêm thăm thẳm sương dày” cính là ngụ ý nói đến những khó khăn vất vả thiếu thốn trong hiện tại và quá khứ và giờ đây được ánh sáng của Đảng chiếu sáng, xóa đi những đêm tăm tối, thoát khỏi kiếp vùng lầy nô lệ. Với nhịp điệu thơ dồn dập, mạnh mẽ, gấp gáp hào hùng sôi động và đoạn thơ tràn ngập ánh sáng của đèn xe, của ngôi sao, của đuốc đặc biệt là ánh sáng của niềm tin. Tất cả tạo nên một khúc hùng ca chiến thắng. Tin vui chiến thắng trăm miền Hoà Bình, Tây Bắc, iện Biên vui về Vui từ ồng Tháp, An Khê Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng. Trong đoạn thơ này tác giả thể hiện một trạng thái vui mừng tả xiết, tự hào khi tin vui chiến thắng đổ dồn dập từ mọi miền đất nước từ miền núi đến đồng bằng, từ bắc tới nam. Niềm vui khó tả xiết, đọc câu thơ người đọc cũng vui lây với tác giả và những con người thời ấy. Nhịp điệu thơ dồn dập, vui tươi cho thấy tốc độ thần kì, nhanh chóng của chiến thắng. Giọng thơ say mê, náo nực ngập tràn vui sướng. Đây là niềm vui sướng của hàng triệu con người từ Bắc tới Nam. Kết bài Đoạn thơ đã nói lên nỗi lòng của tác giả đằng sau nỗi nhớ ấy là những tâm tư tình cảm của nhà thơ dành cho đồng bào Việt Bắc. Đặc biệt, đoạn thơ là sự kết hợp khéo léo hài hòa của chất trữ tình và chính trị, biểu hiện rõ trong nỗi nhớ người ra đi và thể hiện qua sự vận động từ nội dung đến nghệ thuật. Một lần nữa khẳng định, đoạn trích trên chính là khúc ca ân nghĩa, hùng tráng của Việt Bắc trong kháng chiến. Khúc ca ấy qua hồi tưởng của tố Hữu không chỉ hào hùng mà còn rất đậm tình nghĩa, ân tình. Chặng đường mười lăm năm đã qua của đất nước, nhưng nhìn lại vẫn thấy vô cùng biết ơn những con người Việt Bắc đã cưu mang, nhờ có họ, nhờ có mảnh đất này mà dân quân ta mới có thể dành chiến thắng trước kẻ thù. Văn mẫu phân tích Mở bài Tố Hữu là nhà thơ tiêu biểu của nền văn học Việt Nam và là nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Pháp của dân tộc. Thơ ông có sự hòa quyện mềm mại giữa yếu tố chính trị và yếu tố thơ ca, vì vậy tác phậm vừa đậm chất trữ tình lãng mạn, vừa có yếu tố chính trị. Những tác phẩm của ông chủ yếu viết về cách mạng, con người cách mạng. Trong đó, tác phẩm Việt Bắc tiêu biểu cho thơ của Tố Hữu, được sáng tác trong hoàn cảnh cơ quan của Đảng chuyển từ Việt Bắc về Hà Nội. Trong đoạn trích “Nhớ khi giặc đến giặc lùng… Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng” là khúc ca ân nghĩa qua khung cảnh hùng tráng của Việt Bắc được tác giả hồi tưởng đầy xúc động và ân tình. Thân bài Nhớ khi giặc đến giặc lùngRừng cây núi đá ta cùng đánh TâyNúi giăng thành lũy sắt dàyRừng che bộ đội rừng vây quân thùCả khổ thơ tái hiện hoàn cảnh chiến tranh vô cùng căng thẳng và đày khó khăn. Nhớ khi giặc đến giặc lùng – một cảm xúc bao trùm đoạn thơ là nỗi nhớ. Khác với những đoạn trước, nỗi nhớ tràn ngập yêu thương da diết và đều là những cảm xúc hạnh phúc, bình yên. Thì trong câu thơ này, nỗi nhớ mang âm điệu sôi sục của này kháng chiến. Thời gian chiến đấu khắc nghiệt, hình dung ra cảnh giặc lùng từng chiến sĩ, căng thẳng vô cùng. Có như vậy mới biết các chiến sĩ cách mạng gan dạ và phải chiến đấu anh dũng thế nào để thoát khỏi họng súng của kẻ đáng nói, khi giặc đến lùng thì từ con người đến thiên nhiên đều trở thành “thần hộ vệ” cho các chiến sĩ. Cả rừng cây, núi đá đều cùng các chiến sĩ cách mạng đánh giặc, núi thì giăng thành lũy sắt dày, rừng thì che cho bộ đội ẩn mình để chống giặc. So với những đoạn thơ trước, đoạn thơ đã tạo nên một âm điệu sử thi hào hùng. Cả quân và dân và thiên nhiên núi rừng như hòa vào với nhau, tạo nên một khối sức mạnh vô cùng vững chãi, đồng lòng đánh quân xâm lược. Thiên nhiên núi rừng Tây Bắc không hề vô tri vô giác mà vô cùng sống động, thể hiện sự gắn bó, đồng lòng, đoàn kết cùng con người Việt Bắc bảo vệ các chiến sĩ cách mạng, góp phần không nhỏ vào sự nghiệp giải phóng đất mông bốn mặt sương mùĐất trời ta cả chiến khu một lòngCả câu thơ mở ra một không gian vô cùng lớn, bốn mặt sương mù, sương giăng khắp nơi khiến cho khung cảnh mờ ảo và vô cùng hiểm nguy. Khung cảnh có phần uy linh nhưng cũng không kém phần lãng mạn. Hình ảnh “Mênh mông bốn mặt sương mù” cũng thể hiện sự phát triển của kháng chiến, chiến khu giải phóng ngày càng rộn lớn hơn. Đặc biệt, không chỉ thiên nhiên núi rừng mà ngay cả đất trời cũng đều là của ta, đều một lòng chống ý câu thơ thứ hai chính là khẳng định chủ quyền của vùng giải phóng. Sông núi này là của chúng ta, đất trời này là của chúng ta và thực dân Pháp đang xâm phạm chủ quyền cần phải đánh đổi. Cả hai câu thơ cũng thể hiện sự đoàn kết, cùng hướng về đất nước của dân Việt Bắc nói riêng và dân ta nói chung trong cuộc kháng chiến trường kì về ai có nhớ không ?Ta về ta nhớ Phủ Thông, đèo GiàngNhớ sông Lô, nhớ Phố RàngNhớ từ Cao – Lạng, nhớ sang Nhị đoạn thơ này tác giả sử dụng câu hỏi tu từ, hỏi mà như không hỏi. Đọc qua thôi chúng ta cũng cảm nhận nỗi nhớ của người đi và kẻ ở. Các chiến sĩ cách mạng về xuôi không nguôi nhớ những người dân Việt Bắc đã bao bọc, cưu mang, che chở trong những năm gian khó. Và ngược lại, những con người Việt Bắc cũng không thể quên những người chiến sĩ cộng sản gan dạ, dám hi sinh vì tổ quốc. Sau câu hỏi tu từ là đại từ “Ta”, một đại từ thể hiện sự rộng lớn, đại diện cho một thế hệ, và khẳng định nỗi nhớ của Ta – những người chiến sĩ về xuôi dành cho đồng bào Việt Bắc là lớn lao, là cụ thể. Nhớ từ Phủ Thông đến đèo Giàng, từ sông Lo đến Phố Ràng, từ Cao lạng sang Nhị Hà. Nỗi nhớ trải dài khắp miền Việt Bắc, cho thấy một tình cảm thâm sâu và in đậm trong trí cũng là những địa danh ghi lại những chiến công hào hùng của dân tộc. Đó là sự kiện Phủ Thông – Đèo Giàng – nơi diễn ra các trận hồi đầu cuộc kháng chiến chống Pháp. Sông lô – phố Ràng nơi đánh tàu chiếm Pháp trong chiến dịch Việt Bắc và trận đánh đồn Phố Ràng. Riêng địa danh Cao Bằng, lạng sơn thì ta mở chiến dịch giải phóng biên giới Việt trung. Như vậy, trong nỗi nhớ còn chứa đựng niềm tự hào về những chiến công hào hùng, càng khẳng định vai trò của con người quan trọng biết nhường từ nhớ nghe nhẹ nhàng mà sâu lắng, lúc trầm, lúc bổng, lúc mãnh liệt, và trong khổ thơ này đây nỗi nhớ là sự biết ơn đến những người đã hi sinh trong các trận chiến và sự tự hào về Việt Bắc – cái nôi cách mạng đã nuôi dưỡng những con người lý tưởng của đường Việt Bắc của taêm đêm rầm rập như là đất rungSang khổ thơ tiếp tác giả đã mở rộng thêm không gian của Việt Bắc. Việt Bắc trở thành con đường cách mạng lí tượng, rộng thêm, dài thêm, và đêm đêm râm rập tiếng hành quân. Hai câu thơ cho thấy khí thế hào hùng làm rung chuyển đất trời, càng khẳng định sức mạnh của quân và dân ta trong cuộc kháng chiến, đã sẵn sàng bước vào trận đi điệp điệp trùng trùngÁnh sao đầu súng bạn cùng mũ nanDân công đỏ đuốc từng đoànBước chân nát đá, muôn tàn lửa đêm thăm thẳm sương dàyèn pha bật sáng như ngày mai khổ thơ chúng ta cảm nhận được một đội quân hùng dũng, đang bước đi thật đều với một tâm thế sẵn sàng bước vào chiến trận. Từ láy “điệp điệp trùng trùng” cho thấy những đoàn quan nối tiếp nhau tạo thành những đợt sóng trào kéo dài vô tận. Đặc biệt hình ảnh “ánh sao đầu súng” một hình ảnh gợi nhiều liên tưởng. Trong gian khó vẫn có sự lãng mạn, sự lạc quan ,tin tưởng vào tự do, vào tương lai. Hình ảnh này khiến chúng ta liên tưởng đến câu thơ “Trăng treo đầu súng” trong bài thơ đồng chí. Thiên nhiên đã đồng hành cùng chiến sĩ, ánh sao chính là lý tưởng soi sáng, mang đến tinh thần lạc quan, tràn đầy khí sang câu thơ sau chúng ta thấy được hình dân quân với những ngọn đuốc sáng bừng, soi đường, tiếp lương, tải đạn với đầy đủ già trẻ trai gái… Họ bước đi hiên ngang không sợ hãi, không chùn bước, hình tượng bước chân nát đá cho thấy sự dũng mãnh, khẩn trương, không nề hà gian khổ. Có thể nói đội dân quân hùng hậu cũng góp phần rất lớn vào sự đấu tranh giành độc lập của dân khổ thơ là sự hào hùng, khí thế, mạnh mẽ của quân và dân ta, vượt qua mọi khó khăn chông gai, sẵn sàng chiến đấu chống sang hình ảnh của đoàn ô tô quân sự, xe kéo pháo, chở súng đạn, thuốc men lương thực rùng rùng ra trận. Trong đêm tối, ánh đèn pha chiếu sáng không chỉ xuyên thủng màn đêm mà còn soi sáng tư tưởng xuyên qua những đêm dài tăm tối. Câu thơ “nghìn đêm thăm thẳm sương dày” cính là ngụ ý nói đến những khó khăn vất vả thiếu thốn trong hiện tại và quá khứ và giờ đây được ánh sáng của Đảng chiếu sáng, xóa đi những đêm tăm tối, thoát khỏi kiếp vùng lầy nô nhịp điệu thơ dồn dập, mạnh mẽ, gấp gáp hào hùng sôi động và đoạn thơ tràn ngập ánh sáng của đèn xe, của ngôi sao, của đuốc đặc biệt là ánh sáng của niềm tin. Tất cả tạo nên một khúc hùng ca chiến vui chiến thắng trăm miềnHoà Bình, Tây Bắc, iện Biên vui vềVui từ ồng Tháp, An KhêVui lên Việt Bắc, đèo De, núi đoạn thơ này tác giả thể hiện một trạng thái vui mừng tả xiết, tự hào khi tin vui chiến thắng đổ dồn dập từ mọi miền đất nước từ miền núi đến đồng bằng, từ bắc tới nam. Niềm vui khó tả xiết, đọc câu thơ người đọc cũng vui lây với tác giả và những con người thời điệu thơ dồn dập, vui tươi cho thấy tốc độ thần kì, nhanh chóng của chiến thắng. Giọng thơ say mê, náo nực ngập tràn vui sướng. Đây là niềm vui sướng của hàng triệu con người từ Bắc tới Nam. Kết bài Đoạn thơ đã nói lên nỗi lòng của tác giả đằng sau nỗi nhớ ấy là những tâm tư tình cảm của nhà thơ dành cho đồng bào Việt Bắc. Đặc biệt, đoạn thơ là sự kết hợp khéo léo hài hòa của chất trữ tình và chính trị, biểu hiện rõ trong nỗi nhớ người ra đi và thể hiện qua sự vận động từ nội dung đến nghệ lần nữa khẳng định, đoạn trích trên chính là khúc ca ân nghĩa, hùng tráng của Việt Bắc trong kháng chiến. Khúc ca ấy qua hồi tưởng của tố Hữu không chỉ hào hùng mà còn rất đậm tình nghĩa, ân tình. Chặng đường mười lăm năm đã qua của đất nước, nhưng nhìn lại vẫn thấy vô cùng biết ơn những con người Việt Bắc đã cưu mang, nhờ có họ, nhờ có mảnh đất này mà dân quân ta mới có thể dành chiến thắng trước kẻ thù. Có phải bạn đang tìm kiếm chủ đề về => Phân tích đoạn thơ nhớ khi giặc đến giặc lùng trong Việt Bắc của Tố Hữu phải không? Nếu đúng như vậy thì mời bạn xem nó ngay tại đây. Xem thêm các bài tập khác tại đây => Blog Video về Phân tích đoạn thơ nhớ khi giặc đến giặc lùng trong Việt Bắc của Tố Hữu Wiki về Phân tích đoạn thơ nhớ khi giặc đến giặc lùng trong Việt Bắc của Tố Hữu Phân tích đoạn thơ nhớ khi giặc đến giặc lùng trong Việt Bắc của Tố Hữu - Phân tích bài thơ Nhớ giặc giã – Tài liệu phân tích dưới đây sẽ giúp các em học sinh hiểu nội dung tác phẩm, phân tích chính xác từng luận điểm, luận cứ và làm bài văn hay. Phân tích văn bản mẫu Khai mạc Tố Hữu là nhà thơ tiêu biểu của nền văn học Việt Nam và là nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Pháp của dân tộc. Thơ ông có sự hòa quyện nhuần nhuyễn giữa yếu tố chính luận và yếu tố thơ nên tác phẩm vừa trữ tình, vừa lãng mạn, vừa mang tính chính luận. Các tác phẩm của ông chủ yếu viết về cách mạng, những con người cách mạng. Đặc biệt, tác phẩm Việt Bắc tiêu biểu cho thơ Tố Hữu, được sáng tác trong hoàn cảnh cơ quan của Đảng chuyển từ Việt Bắc về Hà Nội. Trong đoạn trích “Nhớ đời giặc giã… Niềm vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng” là một khúc ca tri ân qua khung cảnh hùng vĩ của Việt Bắc được tác giả kể lại đầy xúc động và trìu mến. Thân hình Nhớ khi giặc đến giặc giã. Rừng, núi và đá, chúng ta sẽ cùng nhau đánh Tây Những ngọn núi trải rộng những thành lũy bằng sắt dày Rừng che cho những người lính. Rừng bao vây kẻ thù Toàn bộ khổ thơ miêu tả hoàn cảnh chiến tranh vô cùng căng thẳng và khó khăn. Nhớ khi giặc đến – một cảm xúc bao trùm bài thơ là nỗi nhớ. Khác với những đoạn trước, nỗi nhớ đong đầy yêu thương và đều là những cung bậc cảm xúc hạnh phúc, êm đềm. Thì ở câu thơ này, nỗi nhớ mang âm điệu sục sôi của cuộc kháng chiến này. Thời gian của trận chiến khắc nghiệt, tưởng tượng cảnh chiến đấu đối với mỗi người lính, căng thẳng vô cùng. Có như vậy chúng ta mới biết những người chiến sĩ cách mạng phải kiên cường, dũng cảm như thế nào để thoát khỏi họng súng của kẻ thù. Điều đáng nói là khi giặc đến, tất cả mọi người từ con người đến thiên nhiên đều trở thành “người bảo vệ” cho bộ đội. Cả rừng núi đá cùng chiến đấu với các chiến sĩ cách mạng, núi trải thành lũy sắt dày, rừng che cho chiến sĩ ẩn mình đánh giặc. So với những câu thơ trước, đoạn thơ đã tạo nên một giọng điệu sử thi hào hùng. Cả quân và dân, thiên nhiên núi rừng như hòa quyện vào nhau, tạo nên một khối sức mạnh vô cùng vững chắc, đoàn kết đánh đuổi quân xâm lược. Thiên nhiên núi rừng Tây Bắc không vô tri vô giác mà vô cùng sống động, thể hiện sự gắn bó, đồng lòng, đoàn kết cùng đồng bào miền Bắc đùm bọc chiến sĩ cách mạng, góp phần không nhỏ vào sự nghiệp giải phóng. ra mắt đất nước. Bao la bốn mặt sương mù Trời đất, chúng ta có cả một vùng chiến sự Cả câu thơ mở ra một không gian vô cùng rộng lớn, bốn bề là sương mù, sương mù giăng khắp nơi khiến cảnh vật mờ ảo, vô cùng hiểm trở. Khung cảnh có phần hùng vĩ nhưng cũng không kém phần lãng mạn. Hình ảnh “Bốn bề sương mù” đầy ấn tượng còn thể hiện sự phát triển của cuộc kháng chiến, chiến khu giải phóng ngày càng bận rộn hơn. Đặc biệt, không chỉ thiên nhiên núi rừng, đất trời đều là của ta, một lòng chống giặc. Hàm ý của câu thơ thứ hai là khẳng định chủ quyền của vùng giải phóng. Sông núi này là của chúng ta, thế giới này là của chúng ta, và thực dân Pháp đang xâm phạm chủ quyền của chúng ta. Cả hai câu thơ cũng thể hiện tình đoàn kết, hướng về Tổ quốc của nhân dân Việt Bắc nói riêng và nhân dân ta nói chung trong cuộc kháng chiến trường kỳ này. Ai về ai nhớ? Khi về lại nhớ Phủ Thông, đèo Giang. Nhớ sông Lô, nhớ Phố Ràng Nhớ từ Cao – Lạng, nhớ đến Nhị Hà. Trong bài thơ này, tác giả sử dụng câu hỏi tu từ, hỏi mà không hỏi. Chỉ đọc qua thôi, chúng ta cũng cảm nhận được nỗi nhớ của người đi và người ở lại. Các chiến sĩ cách mạng đi về đâu không khỏi nhớ đến đồng bào Việt Bắc đã bao bọc, cưu mang, đùm bọc trong suốt những năm tháng gian khó. Và ngược lại, người dân Việt Bắc không thể quên những chiến sĩ cộng sản dũng cảm, dám hy sinh vì Tổ quốc. Sau câu hỏi tu từ là đại từ “ta”, một đại từ vừa thể hiện sự bao la, vừa thể hiện một thế hệ, vừa khẳng định nỗi nhớ của Ta – những người lính về bắc đối với đồng bào Việt Bắc là lớn lao. TB, là cụ thể. Nhớ từ Phủ Thông đến đèo Giàng, từ sông Lô đến Phố Ràng, từ Cao Lạng đến Nhị Hà. Nỗi nhớ trải dài khắp Việt Bắc thể hiện tình cảm sâu nặng, in đậm trong nỗi nhớ. Đây cũng là những nơi ghi lại những chiến công hào hùng của dân tộc. Đó là sự kiện Phủ Thông – Đèo Giàng – nơi diễn ra những trận đánh đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp. Đường Sông Lô – Rạng nơi tàu bắt quân Pháp trong chiến dịch Việt Bắc và trận đánh đồn Phố Ràng. Riêng Cao Bằng, Lạng Sơn, ta mở chiến dịch giải phóng biên giới Việt – Trung. Như vậy, trong nỗi nhớ còn chứa đựng niềm tự hào về những chiến công anh hùng, khẳng định vai trò quan trọng của con người như thế nào. Từ “nhớ” nghe nhẹ nhàng mà sâu lắng, có lúc trầm, lúc cao, lúc dữ dội, ở khổ thơ này nỗi nhớ là lòng biết ơn những người đã hy sinh trong các trận đánh và niềm tự hào về Việt Bắc – cái nôi cách mạng đã nuôi dưỡng nên những con người lý tưởng của Đảng. . Những con đường Bắc Việt của tôi Màn đêm ầm ầm như đất rung chuyển Ở khổ thơ tiếp theo, tác giả đã mở rộng không gian Việt Bắc. Việt Bắc trở thành con đường cách mạng lý tưởng, rộng hơn, dài hơn và vang lên tiếng hành quân trong đêm. Hai câu thơ thể hiện khí thế hào hùng chấn động đất trời, càng khẳng định sức mạnh của quân và dân ta trong cuộc kháng chiến, sẵn sàng vào trận. Quân đội đi do thám điều tương tự Ánh sao ở đầu súng, bạn và chiếc mũ Công dân ngọn đuốc đỏ theo nhóm Bước chân đá nát, ngàn tia lửa bay. Ngàn đêm sương mù dày đặc Đèn pha sáng như ngày mai. Qua khổ thơ ta cảm nhận được một đội quân hùng hậu, vững bước đi với tâm thế sẵn sàng vào trận. Từ “trùng trùng điệp điệp” cho thấy các đoàn liên tiếp nhau tạo thành từng đợt sóng bất tận. Đặc biệt hình ảnh “ánh sao đầu súng” là một hình ảnh giàu sức gợi. Trong khó khăn vẫn có sự lãng mạn, lạc quan, tin tưởng vào tự do, vào tương lai. Hình ảnh này làm ta liên tưởng đến câu thơ “Vầng trăng treo đầu súng” trong bài thơ Đồng chí. Thiên nhiên đồng hành cùng những người lính, ánh sao là sự soi sáng lý tưởng, mang lại tinh thần lạc quan, tràn đầy năng lượng. Tiếp đến câu thơ tiếp theo, ta thấy hình ảnh những người dân quân với đuốc sáng, soi đường, tiếp tế lương thực, tải đạn với tất cả nam nữ thanh niên … Họ bước đi kiêu hãnh không sợ hãi, không chùn bước, với hình ảnh. bậc đá dăm thể hiện sự dũng cảm, khẩn trương, không quản ngại gian khổ. Có thể nói, lực lượng dân quân hùng hậu cũng góp phần to lớn vào công cuộc đấu tranh giành độc lập của dân tộc. Toàn bộ khổ thơ là khí phách, tinh thần và sức mạnh của quân và dân ta, vượt qua mọi khó khăn trở ngại, sẵn sàng chiến đấu đánh giặc. Bên cạnh hình ảnh đoàn xe quân sự, xe kéo đại bác, chở súng đạn, thuốc men, lương thực khiến người dân rùng mình khi xung trận. Trong đêm tối, ánh đèn pha không chỉ chiếu xuyên màn đêm, mà còn soi sáng suy nghĩ xuyên qua đêm dài tăm tối. Câu thơ “ngàn đêm mịt mù sương mù” nói về những gian khổ, thiếu thốn trong hiện tại và quá khứ nay được ánh sáng của Đảng soi rọi, xóa đi những đêm đen, thoát ly cuộc đời. đầm lầy nô lệ. Với nhịp điệu dồn dập, mạnh mẽ, hào hùng, sôi nổi, bài thơ tràn ngập ánh sáng của đèn xe, ánh sao, ngọn đuốc, đặc biệt là ánh sáng của niềm tin. Tất cả tạo nên một bản hùng ca khải hoàn. Tin tốt về chiến thắng trên một trăm lĩnh vực Hòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui mừng trở lại Happy from Dong Thap, An Khe Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi đỏ. Trong bài thơ này, tác giả thể hiện tâm trạng vui mừng khôn xiết, tự hào khi tin vui chiến thắng tràn về trên khắp mọi miền đất nước từ miền núi đến đồng bằng, từ miền Bắc vào miền Nam. Niềm vui khôn tả, đọc bài thơ cũng thấy vui với chính tác giả và con người thời bấy giờ. Nhịp thơ dồn dập, vui tươi thể hiện sức mạnh thần kỳ, tốc độ chiến thắng nhanh chóng. Giọng thơ thiết tha, huyên náo, tràn ngập niềm vui. Đây là niềm vui của hàng triệu người từ Bắc chí Nam. Chấm dứt Bài thơ đã nói lên nỗi lòng của tác giả đằng sau nỗi nhớ ấy là những tâm tư tình cảm của nhà thơ đối với đồng bào Việt Bắc. Đặc biệt, đoạn thơ là sự kết hợp nhuần nhuyễn, hài hòa giữa chất trữ tình và chất chính luận, thể hiện rõ nét ở nỗi nhớ người đã khuất và qua sự vận động từ nội dung đến nghệ thuật. Một lần nữa khẳng định, đoạn trích trên là khúc ca tri ân, chí khí anh hùng của Việt Bắc trong cuộc kháng chiến. Bài ca ấy qua dòng hồi ức của Tố Hữu không chỉ hào hùng mà còn chan chứa tình cảm yêu thương. Chặng đường mười lăm năm của đất nước đã trôi qua, nhưng nhìn lại, tôi vẫn vô cùng biết ơn đồng bào Việt Bắc đã cưu mang, nhờ có mảnh đất này mà dân quân ta đã lập nên chiến thắng quân thù. kẻ thù. Phân tích đoạn thơ nhớ khi giặc đến giặc lùng trong Việt Bắc của Tố Hữu Phân tích đoạn thơ nhớ khi giặc đến giặc lùng trong Việt Bắc của Tố Hữu [rule_3_plain] Phân tích đoạn thơ nhớ khi giặc đến giặc lùng trong Việt Bắc của Tố Hữu Phân tích đoạn thơ nhớ khi giặc đến giặc lùng – Tài liệu phân tích dưới đây sẽ giúp cho các em nắm được nội dung tác phẩm, phân tích chính xác từng luận điểm, luận cứ và hành văn hay. Phân tích đoạn thơ nhớ khi giặc đến giặc lùng trong Việt Bắc của Tố Hữu Văn mẫu phân tích Mở bài Tố Hữu là nhà thơ tiêu biểu của nền văn học Việt Nam và là nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Pháp của dân tộc. Thơ ông có sự hòa quyện mềm mại giữa yếu tố chính trị và yếu tố thơ ca, vì vậy tác phậm vừa đậm chất trữ tình lãng mạn, vừa có yếu tố chính trị. Những tác phẩm của ông chủ yếu viết về cách mạng, con người cách mạng. Trong đó, tác phẩm Việt Bắc tiêu biểu cho thơ của Tố Hữu, được sáng tác trong hoàn cảnh cơ quan của Đảng chuyển từ Việt Bắc về Hà Nội. Trong đoạn trích “Nhớ khi giặc đến giặc lùng… Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng” là khúc ca ân nghĩa qua khung cảnh hùng tráng của Việt Bắc được tác giả hồi tưởng đầy xúc động và ân tình. Thân bài Nhớ khi giặc đến giặc lùngRừng cây núi đá ta cùng đánh TâyNúi giăng thành lũy sắt dày Rừng che bộ đội rừng vây quân thùCả khổ thơ tái hiện hoàn cảnh chiến tranh vô cùng căng thẳng và đày khó khăn. Nhớ khi giặc đến giặc lùng – một cảm xúc bao trùm đoạn thơ là nỗi nhớ. Khác với những đoạn trước, nỗi nhớ tràn ngập yêu thương da diết và đều là những cảm xúc hạnh phúc, bình yên. Thì trong câu thơ này, nỗi nhớ mang âm điệu sôi sục của này kháng chiến. Thời gian chiến đấu khắc nghiệt, hình dung ra cảnh giặc lùng từng chiến sĩ, căng thẳng vô cùng. Có như vậy mới biết các chiến sĩ cách mạng gan dạ và phải chiến đấu anh dũng thế nào để thoát khỏi họng súng của kẻ đáng nói, khi giặc đến lùng thì từ con người đến thiên nhiên đều trở thành “thần hộ vệ” cho các chiến sĩ. Cả rừng cây, núi đá đều cùng các chiến sĩ cách mạng đánh giặc, núi thì giăng thành lũy sắt dày, rừng thì che cho bộ đội ẩn mình để chống giặc. So với những đoạn thơ trước, đoạn thơ đã tạo nên một âm điệu sử thi hào hùng. Cả quân và dân và thiên nhiên núi rừng như hòa vào với nhau, tạo nên một khối sức mạnh vô cùng vững chãi, đồng lòng đánh quân xâm lược. Thiên nhiên núi rừng Tây Bắc không hề vô tri vô giác mà vô cùng sống động, thể hiện sự gắn bó, đồng lòng, đoàn kết cùng con người Việt Bắc bảo vệ các chiến sĩ cách mạng, góp phần không nhỏ vào sự nghiệp giải phóng đất mông bốn mặt sương mùĐất trời ta cả chiến khu một lòngCả câu thơ mở ra một không gian vô cùng lớn, bốn mặt sương mù, sương giăng khắp nơi khiến cho khung cảnh mờ ảo và vô cùng hiểm nguy. Khung cảnh có phần uy linh nhưng cũng không kém phần lãng mạn. Hình ảnh “Mênh mông bốn mặt sương mù” cũng thể hiện sự phát triển của kháng chiến, chiến khu giải phóng ngày càng rộn lớn hơn. Đặc biệt, không chỉ thiên nhiên núi rừng mà ngay cả đất trời cũng đều là của ta, đều một lòng chống ý câu thơ thứ hai chính là khẳng định chủ quyền của vùng giải phóng. Sông núi này là của chúng ta, đất trời này là của chúng ta và thực dân Pháp đang xâm phạm chủ quyền cần phải đánh đổi. Cả hai câu thơ cũng thể hiện sự đoàn kết, cùng hướng về đất nước của dân Việt Bắc nói riêng và dân ta nói chung trong cuộc kháng chiến trường kì về ai có nhớ không ?Ta về ta nhớ Phủ Thông, đèo GiàngNhớ sông Lô, nhớ Phố RàngNhớ từ Cao – Lạng, nhớ sang Nhị đoạn thơ này tác giả sử dụng câu hỏi tu từ, hỏi mà như không hỏi. Đọc qua thôi chúng ta cũng cảm nhận nỗi nhớ của người đi và kẻ ở. Các chiến sĩ cách mạng về xuôi không nguôi nhớ những người dân Việt Bắc đã bao bọc, cưu mang, che chở trong những năm gian khó. Và ngược lại, những con người Việt Bắc cũng không thể quên những người chiến sĩ cộng sản gan dạ, dám hi sinh vì tổ quốc. Sau câu hỏi tu từ là đại từ “Ta”, một đại từ thể hiện sự rộng lớn, đại diện cho một thế hệ, và khẳng định nỗi nhớ của Ta – những người chiến sĩ về xuôi dành cho đồng bào Việt Bắc là lớn lao, là cụ thể. Nhớ từ Phủ Thông đến đèo Giàng, từ sông Lo đến Phố Ràng, từ Cao lạng sang Nhị Hà. Nỗi nhớ trải dài khắp miền Việt Bắc, cho thấy một tình cảm thâm sâu và in đậm trong trí cũng là những địa danh ghi lại những chiến công hào hùng của dân tộc. Đó là sự kiện Phủ Thông – Đèo Giàng – nơi diễn ra các trận hồi đầu cuộc kháng chiến chống Pháp. Sông lô – phố Ràng nơi đánh tàu chiếm Pháp trong chiến dịch Việt Bắc và trận đánh đồn Phố Ràng. Riêng địa danh Cao Bằng, lạng sơn thì ta mở chiến dịch giải phóng biên giới Việt trung. Như vậy, trong nỗi nhớ còn chứa đựng niềm tự hào về những chiến công hào hùng, càng khẳng định vai trò của con người quan trọng biết nhường từ nhớ nghe nhẹ nhàng mà sâu lắng, lúc trầm, lúc bổng, lúc mãnh liệt, và trong khổ thơ này đây nỗi nhớ là sự biết ơn đến những người đã hi sinh trong các trận chiến và sự tự hào về Việt Bắc – cái nôi cách mạng đã nuôi dưỡng những con người lý tưởng của đường Việt Bắc của taêm đêm rầm rập như là đất rungSang khổ thơ tiếp tác giả đã mở rộng thêm không gian của Việt Bắc. Việt Bắc trở thành con đường cách mạng lí tượng, rộng thêm, dài thêm, và đêm đêm râm rập tiếng hành quân. Hai câu thơ cho thấy khí thế hào hùng làm rung chuyển đất trời, càng khẳng định sức mạnh của quân và dân ta trong cuộc kháng chiến, đã sẵn sàng bước vào trận đi điệp điệp trùng trùngÁnh sao đầu súng bạn cùng mũ nanDân công đỏ đuốc từng đoànBước chân nát đá, muôn tàn lửa đêm thăm thẳm sương dàyèn pha bật sáng như ngày mai khổ thơ chúng ta cảm nhận được một đội quân hùng dũng, đang bước đi thật đều với một tâm thế sẵn sàng bước vào chiến trận. Từ láy “điệp điệp trùng trùng” cho thấy những đoàn quan nối tiếp nhau tạo thành những đợt sóng trào kéo dài vô tận. Đặc biệt hình ảnh “ánh sao đầu súng” một hình ảnh gợi nhiều liên tưởng. Trong gian khó vẫn có sự lãng mạn, sự lạc quan ,tin tưởng vào tự do, vào tương lai. Hình ảnh này khiến chúng ta liên tưởng đến câu thơ “Trăng treo đầu súng” trong bài thơ đồng chí. Thiên nhiên đã đồng hành cùng chiến sĩ, ánh sao chính là lý tưởng soi sáng, mang đến tinh thần lạc quan, tràn đầy khí sang câu thơ sau chúng ta thấy được hình dân quân với những ngọn đuốc sáng bừng, soi đường, tiếp lương, tải đạn với đầy đủ già trẻ trai gái… Họ bước đi hiên ngang không sợ hãi, không chùn bước, hình tượng bước chân nát đá cho thấy sự dũng mãnh, khẩn trương, không nề hà gian khổ. Có thể nói đội dân quân hùng hậu cũng góp phần rất lớn vào sự đấu tranh giành độc lập của dân khổ thơ là sự hào hùng, khí thế, mạnh mẽ của quân và dân ta, vượt qua mọi khó khăn chông gai, sẵn sàng chiến đấu chống sang hình ảnh của đoàn ô tô quân sự, xe kéo pháo, chở súng đạn, thuốc men lương thực rùng rùng ra trận. Trong đêm tối, ánh đèn pha chiếu sáng không chỉ xuyên thủng màn đêm mà còn soi sáng tư tưởng xuyên qua những đêm dài tăm tối. Câu thơ “nghìn đêm thăm thẳm sương dày” cính là ngụ ý nói đến những khó khăn vất vả thiếu thốn trong hiện tại và quá khứ và giờ đây được ánh sáng của Đảng chiếu sáng, xóa đi những đêm tăm tối, thoát khỏi kiếp vùng lầy nô nhịp điệu thơ dồn dập, mạnh mẽ, gấp gáp hào hùng sôi động và đoạn thơ tràn ngập ánh sáng của đèn xe, của ngôi sao, của đuốc đặc biệt là ánh sáng của niềm tin. Tất cả tạo nên một khúc hùng ca chiến vui chiến thắng trăm miềnHoà Bình, Tây Bắc, iện Biên vui vềVui từ ồng Tháp, An KhêVui lên Việt Bắc, đèo De, núi đoạn thơ này tác giả thể hiện một trạng thái vui mừng tả xiết, tự hào khi tin vui chiến thắng đổ dồn dập từ mọi miền đất nước từ miền núi đến đồng bằng, từ bắc tới nam. Niềm vui khó tả xiết, đọc câu thơ người đọc cũng vui lây với tác giả và những con người thời điệu thơ dồn dập, vui tươi cho thấy tốc độ thần kì, nhanh chóng của chiến thắng. Giọng thơ say mê, náo nực ngập tràn vui sướng. Đây là niềm vui sướng của hàng triệu con người từ Bắc tới Nam. Kết bài Đoạn thơ đã nói lên nỗi lòng của tác giả đằng sau nỗi nhớ ấy là những tâm tư tình cảm của nhà thơ dành cho đồng bào Việt Bắc. Đặc biệt, đoạn thơ là sự kết hợp khéo léo hài hòa của chất trữ tình và chính trị, biểu hiện rõ trong nỗi nhớ người ra đi và thể hiện qua sự vận động từ nội dung đến nghệ lần nữa khẳng định, đoạn trích trên chính là khúc ca ân nghĩa, hùng tráng của Việt Bắc trong kháng chiến. Khúc ca ấy qua hồi tưởng của tố Hữu không chỉ hào hùng mà còn rất đậm tình nghĩa, ân tình. Chặng đường mười lăm năm đã qua của đất nước, nhưng nhìn lại vẫn thấy vô cùng biết ơn những con người Việt Bắc đã cưu mang, nhờ có họ, nhờ có mảnh đất này mà dân quân ta mới có thể dành chiến thắng trước kẻ thù. Phân tích đoạn thơ nhớ khi giặc đến giặc lùng trong Việt Bắc của Tố Hữu Văn mẫu phân tích Mở bài Tố Hữu là nhà thơ tiêu biểu của nền văn học Việt Nam và là nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Pháp của dân tộc. Thơ ông có sự hòa quyện mềm mại giữa yếu tố chính trị và yếu tố thơ ca, vì vậy tác phậm vừa đậm chất trữ tình lãng mạn, vừa có yếu tố chính trị. Những tác phẩm của ông chủ yếu viết về cách mạng, con người cách mạng. Trong đó, tác phẩm Việt Bắc tiêu biểu cho thơ của Tố Hữu, được sáng tác trong hoàn cảnh cơ quan của Đảng chuyển từ Việt Bắc về Hà Nội. Trong đoạn trích “Nhớ khi giặc đến giặc lùng… Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng” là khúc ca ân nghĩa qua khung cảnh hùng tráng của Việt Bắc được tác giả hồi tưởng đầy xúc động và ân tình. Thân bài Nhớ khi giặc đến giặc lùngRừng cây núi đá ta cùng đánh TâyNúi giăng thành lũy sắt dày Rừng che bộ đội rừng vây quân thùCả khổ thơ tái hiện hoàn cảnh chiến tranh vô cùng căng thẳng và đày khó khăn. Nhớ khi giặc đến giặc lùng – một cảm xúc bao trùm đoạn thơ là nỗi nhớ. Khác với những đoạn trước, nỗi nhớ tràn ngập yêu thương da diết và đều là những cảm xúc hạnh phúc, bình yên. Thì trong câu thơ này, nỗi nhớ mang âm điệu sôi sục của này kháng chiến. Thời gian chiến đấu khắc nghiệt, hình dung ra cảnh giặc lùng từng chiến sĩ, căng thẳng vô cùng. Có như vậy mới biết các chiến sĩ cách mạng gan dạ và phải chiến đấu anh dũng thế nào để thoát khỏi họng súng của kẻ đáng nói, khi giặc đến lùng thì từ con người đến thiên nhiên đều trở thành “thần hộ vệ” cho các chiến sĩ. Cả rừng cây, núi đá đều cùng các chiến sĩ cách mạng đánh giặc, núi thì giăng thành lũy sắt dày, rừng thì che cho bộ đội ẩn mình để chống giặc. So với những đoạn thơ trước, đoạn thơ đã tạo nên một âm điệu sử thi hào hùng. Cả quân và dân và thiên nhiên núi rừng như hòa vào với nhau, tạo nên một khối sức mạnh vô cùng vững chãi, đồng lòng đánh quân xâm lược. Thiên nhiên núi rừng Tây Bắc không hề vô tri vô giác mà vô cùng sống động, thể hiện sự gắn bó, đồng lòng, đoàn kết cùng con người Việt Bắc bảo vệ các chiến sĩ cách mạng, góp phần không nhỏ vào sự nghiệp giải phóng đất mông bốn mặt sương mùĐất trời ta cả chiến khu một lòngCả câu thơ mở ra một không gian vô cùng lớn, bốn mặt sương mù, sương giăng khắp nơi khiến cho khung cảnh mờ ảo và vô cùng hiểm nguy. Khung cảnh có phần uy linh nhưng cũng không kém phần lãng mạn. Hình ảnh “Mênh mông bốn mặt sương mù” cũng thể hiện sự phát triển của kháng chiến, chiến khu giải phóng ngày càng rộn lớn hơn. Đặc biệt, không chỉ thiên nhiên núi rừng mà ngay cả đất trời cũng đều là của ta, đều một lòng chống ý câu thơ thứ hai chính là khẳng định chủ quyền của vùng giải phóng. Sông núi này là của chúng ta, đất trời này là của chúng ta và thực dân Pháp đang xâm phạm chủ quyền cần phải đánh đổi. Cả hai câu thơ cũng thể hiện sự đoàn kết, cùng hướng về đất nước của dân Việt Bắc nói riêng và dân ta nói chung trong cuộc kháng chiến trường kì về ai có nhớ không ?Ta về ta nhớ Phủ Thông, đèo GiàngNhớ sông Lô, nhớ Phố RàngNhớ từ Cao – Lạng, nhớ sang Nhị đoạn thơ này tác giả sử dụng câu hỏi tu từ, hỏi mà như không hỏi. Đọc qua thôi chúng ta cũng cảm nhận nỗi nhớ của người đi và kẻ ở. Các chiến sĩ cách mạng về xuôi không nguôi nhớ những người dân Việt Bắc đã bao bọc, cưu mang, che chở trong những năm gian khó. Và ngược lại, những con người Việt Bắc cũng không thể quên những người chiến sĩ cộng sản gan dạ, dám hi sinh vì tổ quốc. Sau câu hỏi tu từ là đại từ “Ta”, một đại từ thể hiện sự rộng lớn, đại diện cho một thế hệ, và khẳng định nỗi nhớ của Ta – những người chiến sĩ về xuôi dành cho đồng bào Việt Bắc là lớn lao, là cụ thể. Nhớ từ Phủ Thông đến đèo Giàng, từ sông Lo đến Phố Ràng, từ Cao lạng sang Nhị Hà. Nỗi nhớ trải dài khắp miền Việt Bắc, cho thấy một tình cảm thâm sâu và in đậm trong trí cũng là những địa danh ghi lại những chiến công hào hùng của dân tộc. Đó là sự kiện Phủ Thông – Đèo Giàng – nơi diễn ra các trận hồi đầu cuộc kháng chiến chống Pháp. Sông lô – phố Ràng nơi đánh tàu chiếm Pháp trong chiến dịch Việt Bắc và trận đánh đồn Phố Ràng. Riêng địa danh Cao Bằng, lạng sơn thì ta mở chiến dịch giải phóng biên giới Việt trung. Như vậy, trong nỗi nhớ còn chứa đựng niềm tự hào về những chiến công hào hùng, càng khẳng định vai trò của con người quan trọng biết nhường từ nhớ nghe nhẹ nhàng mà sâu lắng, lúc trầm, lúc bổng, lúc mãnh liệt, và trong khổ thơ này đây nỗi nhớ là sự biết ơn đến những người đã hi sinh trong các trận chiến và sự tự hào về Việt Bắc – cái nôi cách mạng đã nuôi dưỡng những con người lý tưởng của đường Việt Bắc của taêm đêm rầm rập như là đất rungSang khổ thơ tiếp tác giả đã mở rộng thêm không gian của Việt Bắc. Việt Bắc trở thành con đường cách mạng lí tượng, rộng thêm, dài thêm, và đêm đêm râm rập tiếng hành quân. Hai câu thơ cho thấy khí thế hào hùng làm rung chuyển đất trời, càng khẳng định sức mạnh của quân và dân ta trong cuộc kháng chiến, đã sẵn sàng bước vào trận đi điệp điệp trùng trùngÁnh sao đầu súng bạn cùng mũ nanDân công đỏ đuốc từng đoànBước chân nát đá, muôn tàn lửa đêm thăm thẳm sương dàyèn pha bật sáng như ngày mai khổ thơ chúng ta cảm nhận được một đội quân hùng dũng, đang bước đi thật đều với một tâm thế sẵn sàng bước vào chiến trận. Từ láy “điệp điệp trùng trùng” cho thấy những đoàn quan nối tiếp nhau tạo thành những đợt sóng trào kéo dài vô tận. Đặc biệt hình ảnh “ánh sao đầu súng” một hình ảnh gợi nhiều liên tưởng. Trong gian khó vẫn có sự lãng mạn, sự lạc quan ,tin tưởng vào tự do, vào tương lai. Hình ảnh này khiến chúng ta liên tưởng đến câu thơ “Trăng treo đầu súng” trong bài thơ đồng chí. Thiên nhiên đã đồng hành cùng chiến sĩ, ánh sao chính là lý tưởng soi sáng, mang đến tinh thần lạc quan, tràn đầy khí sang câu thơ sau chúng ta thấy được hình dân quân với những ngọn đuốc sáng bừng, soi đường, tiếp lương, tải đạn với đầy đủ già trẻ trai gái… Họ bước đi hiên ngang không sợ hãi, không chùn bước, hình tượng bước chân nát đá cho thấy sự dũng mãnh, khẩn trương, không nề hà gian khổ. Có thể nói đội dân quân hùng hậu cũng góp phần rất lớn vào sự đấu tranh giành độc lập của dân khổ thơ là sự hào hùng, khí thế, mạnh mẽ của quân và dân ta, vượt qua mọi khó khăn chông gai, sẵn sàng chiến đấu chống sang hình ảnh của đoàn ô tô quân sự, xe kéo pháo, chở súng đạn, thuốc men lương thực rùng rùng ra trận. Trong đêm tối, ánh đèn pha chiếu sáng không chỉ xuyên thủng màn đêm mà còn soi sáng tư tưởng xuyên qua những đêm dài tăm tối. Câu thơ “nghìn đêm thăm thẳm sương dày” cính là ngụ ý nói đến những khó khăn vất vả thiếu thốn trong hiện tại và quá khứ và giờ đây được ánh sáng của Đảng chiếu sáng, xóa đi những đêm tăm tối, thoát khỏi kiếp vùng lầy nô nhịp điệu thơ dồn dập, mạnh mẽ, gấp gáp hào hùng sôi động và đoạn thơ tràn ngập ánh sáng của đèn xe, của ngôi sao, của đuốc đặc biệt là ánh sáng của niềm tin. Tất cả tạo nên một khúc hùng ca chiến vui chiến thắng trăm miềnHoà Bình, Tây Bắc, iện Biên vui vềVui từ ồng Tháp, An KhêVui lên Việt Bắc, đèo De, núi đoạn thơ này tác giả thể hiện một trạng thái vui mừng tả xiết, tự hào khi tin vui chiến thắng đổ dồn dập từ mọi miền đất nước từ miền núi đến đồng bằng, từ bắc tới nam. Niềm vui khó tả xiết, đọc câu thơ người đọc cũng vui lây với tác giả và những con người thời điệu thơ dồn dập, vui tươi cho thấy tốc độ thần kì, nhanh chóng của chiến thắng. Giọng thơ say mê, náo nực ngập tràn vui sướng. Đây là niềm vui sướng của hàng triệu con người từ Bắc tới Nam. Kết bài Đoạn thơ đã nói lên nỗi lòng của tác giả đằng sau nỗi nhớ ấy là những tâm tư tình cảm của nhà thơ dành cho đồng bào Việt Bắc. Đặc biệt, đoạn thơ là sự kết hợp khéo léo hài hòa của chất trữ tình và chính trị, biểu hiện rõ trong nỗi nhớ người ra đi và thể hiện qua sự vận động từ nội dung đến nghệ lần nữa khẳng định, đoạn trích trên chính là khúc ca ân nghĩa, hùng tráng của Việt Bắc trong kháng chiến. Khúc ca ấy qua hồi tưởng của tố Hữu không chỉ hào hùng mà còn rất đậm tình nghĩa, ân tình. Chặng đường mười lăm năm đã qua của đất nước, nhưng nhìn lại vẫn thấy vô cùng biết ơn những con người Việt Bắc đã cưu mang, nhờ có họ, nhờ có mảnh đất này mà dân quân ta mới có thể dành chiến thắng trước kẻ thù. Phân tích đoạn thơ nhớ khi giặc đến giặc lùng trong Việt Bắc của Tố Hữu [rule_3_plain] Phân tích đoạn thơ nhớ khi giặc đến giặc lùng trong Việt Bắc của Tố Hữu Phân tích đoạn thơ nhớ khi giặc đến giặc lùng – Tài liệu phân tích dưới đây sẽ giúp cho các em nắm được nội dung tác phẩm, phân tích chính xác từng luận điểm, luận cứ và hành văn hay. Phân tích đoạn thơ nhớ khi giặc đến giặc lùng trong Việt Bắc của Tố Hữu

phân tích nhớ khi giặc đến giặc lùng