thái nguyên đệ nhất danh trà

Trà Anh Thị hy vọng sẽ làm say lòng quý khách thưởng trà, để hương Trà Thái Nguyên ngày càng bay cao bay xa xứng đáng danh hiệu "Thái Nguyên Đệ Nhất Danh Trà". ____ UY TÍN LÀM NÊN THƯƠNG HIỆU____ ☎️ 0986 203 400 - 0868 509 556. 📧 anhthitea@gmail.com. 🔎 Website: anhthitea.com Trà móc câu Thái Nguyên được người dân bản địa hái tỉ mỉ theo công thức "1 nõn 2 tôm". Nghĩa là cứ 1 búp non của trà sẽ hái kết hợp thêm 1-2 lá phía dưới. Chỉ lấy duy nhất phần ngọn non, chứ không thêm bất kỳ lá già nào theo cùng. Sau khi hái về, phải trải qua công đoạn chế biến cầu kỳ. Trà có hình xoắn nhỏ và cong giống như móc câu. Thái Nguyên xanh bát ngát những nương chè Huyền thoại hồ Núc Cốc bạn từng nghe Chàng Cốc, Nàng Công in hồn sông núi Đất thép anh hùng lưu dấu những chiến công Một thành phố bên sông Cầu xanh mát Một quê hương thủa kháng chiến oai hùng Miền đất hứa với tâm hồn rộng mở Những tấm lòng hiếu khách biết sẻ chia Hương trà thơm xanh thắm đến mượt mà Dịch Vụ Hỗ Trợ Vay Tiền Nhanh 1s. Đi tìm gốc tích bùa lèo Một câu hỏi đặt ra là trà Tân Cương có từ bao giờ? Những yếu tố nào đã tạo cho trà nơi đây hương vị đặc biệt đến độ được người đời tôn vinh là đệ nhất danh trà và ông nghè Trâu Lỗ nghè Sổ có liên quan gì với danh trà ấy mà người trồng chè Thái Nguyên tôn vinh, thờ sống ông, tên tuổi ông nức tiếng gần xa. Di ảnh cụ Nghè Sổ Nguyễn Đình Tuân Danh thơm ông nghè Trâu Lỗ Thái Nguyên là vùng đất gắn với cây chè truyền thống. Sản phẩm chè được đem đi khắp các vùng miền và cả thị trường nước ngoài, được những người sành chè và nhiều thị trường khó tính chấp nhận. Nhiều người biết đến danh trà Tân Cương thơm ngon với câu nói "Đệ nhất danh trà", nhưng ít ai biết rằng ông tổ của nghề trồng chè tại vùng đất này chính là quan Nghè Sổ quê ở làng Trâu Lỗ, xã Mai Đình, huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang làng Trâu Lỗ có tên nôm là làng Sổ, vì vậy quan nghè Nguyễn Đình Tuân được nhân dân gọi là nghè Sổ. Tìm về lịch sử, tại xã Tân Cương, thành phố Thái Nguyên xưa có ngôi đình thờ Nguyễn Đình Tuân. Nhân dân vùng trà đã tôn vinh ông làm thành hoàng làng và thờ sống ông ngay khi còn đương chức nhằm ca ngợi công đức của một vị quan Tuần phủ đã hết mực quan tâm đến cuộc sống nhân dân địa phương. Ông Bùi Huy Toàn, Trưởng Ban quản lý Khu di tích Lịch sử – Sinh thái ATK Định Hóa, nguyên Giám đốc Bảo tàng tỉnh Thái Nguyên cho biết Trong tâm thức nhân dân vùng Tân Cương, hình ảnh ông nghè Sổ đã được tôn vinh là vị Thành hoàng, người đã đem lại cuộc sống ổn định, bình yên cho nhân dân nơi này vào đầu thế kỷ XX, đã được ghi vào sử sách địa phương. Việc này được phản ánh trong cuốn Hương ước làng Tân Cương lập năm 1942. Những tư liệu về sự hình thành và phát triển làng nghề chè Tân Cương đang trưng bày tại Công trình Không gian văn hóa chè phục vụ đón du khách thăm vùng chè Tân Cương và tham dự sự kiện thường niên từ 2-3 năm tổ chức Festival Trà Thái Nguyên theo đề án “Bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa vật thể, phi vật thể Trà Thái Nguyên” đã được Thủ tướng chính phủ phê duyệt năm 2013. Theo người già kể lại thì vùng Tân Cương ngày xưa đồi núi mênh mông, hoang vu rậm rạp. Đây là vùng bán sơn địa, mà sơn nhiều, địa ít, dân khai phá nương rẫy, gieo lúa trồng khoai vất vả mà làm nhiều ăn ít, thu nhập chẳng là bao, lắm khi mấy tháng liền không nhìn thấy hạt gạo, chỉ ăn toàn khoai sắn. Thấy vậy, ông nghè Sổ có sáng kiến và bàn với dân Tân Cương đem giống chè về trồng để dân có thêm thu nhập. Theo chỉ dẫn của ông nghè, ông Đội Năm cùng một số trai tráng và mấy người lính của ông nghè đã lặn lội lên vùng Phú Thọ để xin giống chè. Sau nhiều chuyến đi như thế, cây chè Tân Cương cứ nhân ra mãi và chẳng mấy chốc Tân Cương đã khoác lên mình màu xanh mướt của các nương chè. Di tích lăng mộ cụ Nghè Sổ. Điều này trùng hợp với các tình tiết trong tự truyện của ông nghè kể. Tức là trong lúc ông đi nhậm chức Giáo thụ tỉnh Yên Bái, có qua thăm và nghỉ nhà ông Cử Đoàn ở Phú Thọ, vốn là bạn đồng khoa thi hương. Vì thế mà ông nghè biết giá trị kinh tế của cây chè nên đã cử người Tân Cương đến gặp bạn để xin giống chè. Nhưng chè Phú Thọ đem về Tân Cương thì chất lượng khác hẳn, có hương vị riêng không nơi nào sánh được. Chính điều kiện khí hậu và thổ nhưỡng thích hợp đã tạo nên hương vị thơm ngon đặc biệt của chè Tân Cương. Vào đầu những năm 20 của thế kỷ trước, Tân Cương đã được thu hoạch vụ chè đầu tiên và có tên là chè Bạch Hạc, có thể là do cây chè giống được lấy từ vùng Bạch Hạc của tỉnh Phú Thọ. Tại cuộc thi Đấu Xảo do chính quyền đô hộ thực dân Pháp tổ chức năm 1935 ở Hà Nội, chè Tân Cương được trao giải đặc biệt mang thương hiệu Cánh hạc - biểu tượng của nền văn hóa con lạc cháu hồng. Hiện nay vùng chè Tân Cương không chỉ bó hẹp trong xã Tân Cương mà còn lan rộng ra các xã xung quanh như Tân Thịnh, Thịnh Đán, Phúc Xuân, Phúc Trìu. Theo thống kê, khoảng 96% dân số trong các xã này trồng và chế biến chè với tổng sản lượng bình quân đạt gần 1 nghìn tấn chè búp khô mỗi năm. Thái Nguyên luôn được xem là vùng chè trọng điểm của cả nước với diện tích, sản lượng chỉ đứng sau tỉnh Lâm Đồng Theo số liệu của Sở Nông nghiệp và PTNT tỉnh Thái Nguyên thì toàn tỉnh có trên 20 nghìn ha đất trồng chè, sản lượng đạt khoảng 200 nghìn tấn chè búp tươi/năm. Với nhiều địa phương trong tỉnh, cây chè còn được coi là cây xóa đói giảm nghèo, cây làm giàu, làm du lịch không thể thiếu của nhiều gia đình nông dân. Đến nay nghề trồng và chế biến chè ở Thái Nguyên đã phát triển, trở thành hàng hóa với thương hiệu truyền thống, tạo công ăn, việc làm, thu nhập cao cho người lao động để vùng đất Tân Cương kết hợp với phát triển Khu du lịch hồ Núi Cốc trở thành vùng quê trù phú, cường thịnh như điều mong ước của ông nghè Sổ xưa. Cũng theo ông Toàn Ngôi đình Tân Cương xưa được nhân dân địa phương khởi công xây dựng vào ngày 10 tháng 2 năm 1922 năm Nhâm Tuất dưới triều Vua Khải Định thứ 7. Sau một năm đình hoàn thành, tức vào năm 1923. Vùng chè Thái Nguyên hôm nay Ông nghè Sổ lúc ấy đã tặng cho đình một hoành phi khắc 3 chữ Hán “Đại thắng lợi” và 1 câu đối có nội dung như sau “Thái Nguyên giàu đẹp muôn muôn thuở/ Tân Cương cường thịnh vạn vạn niên”. Tất cả được dùng bằng gỗ xà cừ khảm điêu khắc sơn son thiếp vàng và được treo thờ tại đình làng Tân Cương. Nội dung hoành phi, câu đối toát lên sự tin tưởng lạc quan vào tương lai của việc mở đất lập làng, chúc cho dân làng giàu đẹp, cường thịnh. Mỗi năm lễ hội, nhân dân Tân Cương đem lễ vật ra tận công đường cúng lễ ông nghè Sổ. Trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, Thái Nguyên là vùng An toàn khu, các cơ quan Trung ương về làm việc, đình Tân Cương cũng nằm trong diện phải tiêu thổ kháng chiến, ngôi đình phải dỡ bỏ giai đoạn 1947-1954. Hiện tại, nền đình vẫn còn và một khung ảnh thờ ông nghè Sổ. “Thật quý hóa vô cùng, mấy năm trước chúng tôi về quê hương tiến sĩ Nguyễn Đình Tuân ở làng Trâu Lỗ gặp ông Nguyễn Đức Ấn, cháu hậu duệ đời thứ 3 đã cung cấp cho chúng tôi tư liệu cuốn gia phả dòng họ Nguyễn Đình và ảnh đang thờ của ông Nghè Sổ - tiến sĩ cuối cùng vùng Kinh Bắc, vị tiến sĩ thứ 58 của tỉnh Bắc Giang trong thời kỳ phong kiến triều đại nhà Nguyễn”, ông Toàn cho biết. Vị quan thanh liêm, chính trực Theo sử cũ, Nguyễn Đình Tuân 1867-1941, tự là Hữu Mai. Sinh ra trong một gia đình có truyền thống Nho học, lại thêm thông minh thiên bẩm, Nguyễn Đình Tuân đã sớm nổi danh về tài học, công đèn sách cần cù của ông đã được đền đáp xứng đáng bằng việc đã trở thành Đình nguyên khoa thi năm Tân Sửu, Thành Thái thứ 13 1901 thời Nguyễn. Ông là vị quan thanh liêm, chính trực; được sinh ra, lớn lên trong một gia đình có truyền thống hiếu học và có nhân cách thanh cao. Ông nghè từ nhỏ đã nổi tiếng việc gì cũng để tâm xem xét, ghi nhớ, tỏ rõ trí lực và cốt cách hơn hẳn những đứa trẻ cùng trang lứa. 6 tuổi học 18 ngày đã thuộc Tam Tự kinh, 7 tuổi đã học sách Chu Tứ tiểu học. Lên 8 tuổi học hết bộ Luận ngữ và nửa bộ Mạnh Tử trong pho Tứ thư thì phải bỏ học vì giặc giã, cả nhà phải chạy sang Đa Phúc bên kia sông Bắc Ninh. Năm 11 tuổi, ông tập làm câu đối thơ, câu đối phú và văn sách. Đến năm 14 tuổi thì học hết pho Bắc sử 27 quyển, pho Tứ thư 8 quyển và Kinh thi, Kinh thư, Kinh Xuân thu, pho tả truyện. Những chỗ học rồi hỏi đâu nhớ đấy, chỉ còn Kinh dịch, Kinh lễ chưa học mà thôi. Bản sắc phong cho cụ Nguyễn Đình Tuân Năm Đinh Dậu 1897, dưới triều Vua Thành Thái, Nguyễn Đình Tuân tham gia kỳ thi Hương và đỗ cử nhân. Năm 1901, “thần đồng” làng Trâu Lỗ vào kinh đô Huế thi và đỗ đầu tiến sĩ khoa Tân Sửu, trúng Đình nguyên nhà Nguyễn không lấy trạng nguyên. Với những người đỗ đạt cao, nhà vua “vời” vào thăm vườn Thượng uyển, cho phép mỗi tân quan hái một bông hoa mình thích để triều đình đúc vàng tặng bông hoa tương ứng cho vị quan đó. Nguyễn Đình Tuân chọn cho mình bông mai màu trắng nhỏ xíu nên ông còn có tên Hữu Mai và cũng là bút danh cho những tác phẩm văn học sau này của ông. Theo PGS. TS Nguyễn Tá Nhí, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, quan Nghè Sổ có nhiều đóng góp trong sáng tác văn chương và quản lý nhà nước ở giai đoạn giữa thế kỷ XX. Những di văn hiện còn của ông chủ yếu là thơ mừng tặng, thơ tả cảnh, chỉ có 1 tác phẩm liên quan đến chính trị là bài Văn sách thi đình, được tuyển chọn vào cuốn Hội thí văn tuyển và một tác phẩm có nội dung lịch sử là Đại Việt quốc sử cải lương. Trong cuộc đời làm quan, Nguyễn Đình Tuân nổi tiếng là thanh liêm, chính trực, lúc nào cũng giữ nhân cách thanh cao của một nhà Nho chân chính. Trong thời gian làm đốc học tỉnh Hà Đông, ông Nghè Sổ có soạn bộ Đại Việt quốc sử cải lương và đã tặng bộ sách này cho Viễn Đông Bác cổ. Năm 1954, người Pháp rút quân về nước, bộ sách được đem theo. Năm 1960, khi quan hệ Việt Nam – Pháp cởi mở hơn, họ đã trao lại cho phía ta bộ sách này. Hiện tại, bộ sách được lưu trữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm với 765 trang chữ Hán. Ông Nghè Sổ mất năm 1941 tại quê nhà, sau đó con cháu và học trò xây lăng miếu thờ ông tại làng Trâu Lỗ. Ở làng Trâu Lỗ hiện còn di tích lăng Nghè Sổ được xây dựng năm 1937. Lăng còn bảo tồn được nguyên vẹn các yếu tố gốc. Hằng năm, vào ngày 20 tháng 6 Âm lịch, dòng họ, nhân dân trong thôn tổ chức lễ giỗ để tưởng nhớ công trạng của ông Nghè đối với quê hương, đất nước. Được biết, con trai duy nhất của ông Nghè là ông Nguyễn Tái Chương hiện đã hơn 90 tuổi đang sinh sống ở Hà Nội. Ghi nhớ công lao ấy, tại TP Bắc Giang hiện có con đường mang tên Nguyễn Đình Tuân. Ông Bùi Huy Toàn cho biết thêm “Mấy năm trước chúng tôi đã gặp con trai duy nhất của ông Nghè Sổ là ông Nguyễn Tái Chương - cử nhân Văn chương trước năm 1945 hiện đang sống ở Hà Nội với con trai. Gia đình ông Nguyễn Tái Chương vẫn gìn giữ như mới nguyên tấm biển “Ân tứ vinh quy”, “Tân Sửu Đình nguyên” vua ban và hoành phi, câu đối của các vị quan đồng triều tặng ông Nghè Sổ. Để phát huy giá trị văn hóa phi vật thể của trà Thái Nguyên trong nội dung của đề án đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt năm 2013, dưới góc nhìn bảo tồn văn hóa cũng cần quan tâm đến việc nghiên cứu để phục dựng lại ngôi đình Tân Cương xưa, huy động được sự ủng hộ đóng góp từ các nguồn lực của địa phương hoặc đặt con đường, tên trường được mang tên người có công khai khẩn lập nên làng nghề chè nổi tiếng như ngày nay, để giáo dục truyền thống “ăn quả nhớ người trồng cây” đạo lý tốt đẹp của dân tộc ta, cho các thế hệ mãi mãi”. Sự kiện Festival Trà là điều kiện thuận lợi để vùng chè Tân Cương - Hồ Núi Cốc thu hút nguồn lực đầu tư, trở thành khu du lịch sinh thái hấp dẫn, góp phần đưa Thái Nguyên trở thành tỉnh giàu đẹp như mong muốn của các bậc tiền nhân. Trong đó, tinh thần yêu nước, nhân cách thanh cao, đặc biệt là lòng hiếu học của ông nghè Trâu Lỗ đến hôm nay vẫn là những bài học còn nguyên giá trị. Đi tìm gốc tích người Xá từ những khúc xương bí ẩn Trà Thái Nguyên là dòng trà xanh nổi tiếng bậc nhất tại Việt Nam. Thế nhưng chỉ khoảng 30% trà xanh Thái Nguyên trên thị trường là đúng đến từ vùng trà này. Bài viết sau sẽ cung cấp đầy đủ thông tin để bạn mua đúng trà Thái Nguyên chính gốc. Trà Thái Nguyên hay còn gọi là Chè Thái Nguyên là loại trà xanh đặc sản Thái Nguyên; một tỉnh thuộc vùng trung du ở phía Bắc nước ta. Trà Thái Nguyên còn được biết đến với cái tên là Trà Bắc Thái, hay gọi ngắn gọn là Trà Bắc. Trà Bắc Thái rất nổi tiếng vào nhiều thập kỷ trước. Nhưng ngay sau khi Bắc Thái tách thành Bắc Kạn và Thái Nguyên. Thì cái tên trà Thái Nguyên được biết đến ngày càng nhiều hơn. Chính vì vậy khi bạn đi mua trà thì gọi là Trà Bắc, Trà Bắc Thái hay Trà Thái Nguyên đều đúng. Trà Thái Nguyên là dòng trà thuộc nhóm trà xanh. Và trà xanh cũng chính là nhóm trà được ưa chuộng nhất tại Việt Nam. Lý do này bắt nguồn từ việc người Việt thích uống nước trà hãm từ lá trà tươi. Mà trà xanh được chế biến sao cho đạt được hương vị giống lá trà tươi nhất. Ở Việt Nam thì trà xanh được chia làm 2 nhóm. Đó là nhóm trà xanh đến từ miền trung du, và nhóm trà xanh từ cây trà cổ thụ ở các vùng miền núi phía Bắc. Và trà Thái Nguyên được xem là loại trà xanh trung có chất lượng cao nhất. Cây trà không phải là loài cây bản địa ở Thái Nguyên. Mà cây trà giống được đưa về từ Phú Thọ vào giai đoạn thực dân Pháp đô hộ nước ta. Phú Thọ cũng chính là nơi mà người Pháp lập nên đồn điền trà đầu tiên của nước ta. Mặc dù không phải là loài cây bản địa, nhưng khi đưa về trồng đầu tiên ở xã Tân Cương tỉnh Thái Nguyên thì cây trà rất hợp với thổ nhưỡng nơi đây. Khiến cho trà xanh thành phẩm có chất lượng rất cao và nức tiếng khắp nơi. Nhờ vậy mà dân gian vẫn lưu truyền câu nói “Chè Thái, Gái Tuyên”. Tức là trà ngon phải kể đến chè Thái Nguyên hay trà Thái Nguyên. Còn phụ đẹp không thể không nhắc đến phụ nữ Tuyên Quang. CHẾ BIẾN TRÀ XANH THÁI NGUYÊN 1. Thu hái Lá trà xanh Thái Nguyên được thu hái hoàn toàn bằng tay. Thay vì băng máy như một số vùng trà khác. Vì vườn trà ở Thái Nguyên thường có quy mô nhỏ theo hộ gia đình. Nên mỗi nhà sẽ có một số bãi trà. Nên thu hái băng tay cũng không mất nhiều thời gian nhưng bù lại là đỡ làm tổn thương cây trà hơn. Mỗi lần người làm trà chỉ hái một bãi vừa đủ để chế biến chè xanh Thái Nguyên ngay trong ngày. Thu hái và phân loại trà bằng tay. 2. Làm héo Làm héo là giai đoạn mà lá trà được trải lên những chiếc nong lớn và để ở nơi mát và thoáng khí. Lá trà xanh Thái Nguyên sẽ mất dần trọng lượng nước. Nhờ vậy mà sẽ rút ngắn thời gian xao nên lá trà sẽ đỡ bị khét’. Giai đoạn làm héo này còn giúp lá trà dẻo dai hơn nên sẽ đỡ bị nát khi vò và xao. Làm héo 3. Diệt men Diệt men là giai đoạn mà lá trà xanh Thái Nguyên được xao ở nhiệt độ cao. Quy trình làm trà xanh bắt buộc phải có bước diệt men’. Vì men hay enzyme là chất xúc tác của các thành phần của lá trà với không khí. Khi diệt men’ thì enzyme sẽ bị loại bỏ. Nhờ đó thì lá trà sẽ không bị oxy hoá và giữ được hương vị và chất như lá trà tươi. 4. Vò trà Vò giai đoạn mà lá trà xanh Thái Nguyên sẽ được vò bằng tay hay bằng máy vò chuyên dụng. Mục đích của giai đoạn này là phá vỡ các mô và lớp biểu bì của lá trà. Khiến cho các thành phần tạo hương vị hoà quyện với nhau. Đồng thời giúp cho lá trà khô dễ thẩm thấu nước hơn khi pha. Nhờ vậy mà thành phần hương vị của lá chè xanh Thái Nguyên cũng sẽ dễ hoà vào nước hơn khi pha. Vò trà bằng tay 5. Xao khô Xao khô như tên gọi của mình là bước làm khô lá trà xanh Thái Nguyên. Lúc này lượng nước trong lá trà được giảm đến mức tối thiểu. Và giúp cho lá trà có thể trữ được trong nhiều tháng. Xao khô 6. Thành phẩm Trà thành phẩm ĐẶC ĐIỂM CỦA TRÀ THÁI NGUYÊN Hình Dáng Cánh Trà Tuỳ theo phẩm trà mà hình dạng lá trà Thái Nguyên cũng sẽ khác nhau. Lá trà càng cao cấp thì cánh trà càng mỏng và nhỏ. Trà chất lượng từ khá đến phổ thông sẽ có cánh càng to dần. Lý do là trà Thái Nguyên ngon thì nguyên liệu làm nên sẽ là những cánh trà non nhất của cây trà. Còn chất lượng vừa phải thì sẽ nguyên liệu sử dụng sẽ là những lá trà già và to hơn. Những lá trà non nhất thường sẽ vươn cao nhất của nhánh cây trà. Từ búp trà này thì lá trà sẽ càng lớn và hương vị cũng sẽ giảm dần đi. Phân hạng của trà xanh Thái Nguyên có thể hiểu như sau Trà Đinh chỉ hái búp trà non nhất Trà Nõn Tôm búp trà và hai lá non kế tiếp Trà Móc Câu Thái Nguyên lá trà non Trà Bồm 100% lá trà già. Trà Cám trà bột nát Hương Trà Trà Thái Nguyên làm kiểu truyền thống sẽ có mùi hương đặc trưng. Đó chính là hương ngậy béo như cốm ngày mùa, vị xanh tươi của lá, và thơm giòn của việc xao chảo. Nhiều người hiểu lầm là trà Tân Cương Thái Nguyên cứ chế biến xong uống ngay là ngon nhất. Nhưng thật sự là không phải vậy. Trà Thái Nguyên uống ngon nhất là tầm 2 tuần đến 1 tháng sau khi xao. Sau thời gian ủ thì mùi hương áp chảo và mùi ngái’ của lá trà tươi sẽ phai đi nhiều. Lúc này hương trà sẽ dậy mùi cốm và ngậy béo hơn rất nhiều. Để biết rõ mùi hương của lá trà Thái Nguyên khô. Thì bạn có thể làm theo cách sau Làm nóng ấm bằng nước sôi. Cho lá trà Thái Nguyên khô vào trong ấm và đậy nắp lại. Lắc nhẹ ấm trong khoảng 10s. Mở nắp ấm và ngửi mùi lá trà khô Trà Thái Nguyên ngon có hương tự nhiên sẽ rất dậy mùi nhưng nhẹ nhàng. Còn trà ướp hương liệu sẽ rất nồng và thơm. Giống như mùi nước hoa vậy. Mùi hương liệu giống như những chai nước trà đóng chai bán ở siêu thị. Trà xanh Thái Nguyên ngon thật sự khi rót ra sẽ có mùi hương dịu nhẹ lan toả ngay khi nước sôi được rót vào trong ấm. Mùi hương sẽ theo hơi nước toả ra khắp phòng. Một mẹo nhỏ khác để đánh giá mùi hương của trà Thái Nguyên. Đó chính là ngửi nắp ấm ngay sau khi bạn rót nước trà. Lúc này các chất dễ bay hơi volatile mang theo mùi hương sẽ tụ lại vào nắp ấm. Khi bạn ngửi nắp ấm sẽ thấy được mùi hương thật sự của trà. Màu Sắc Cánh trà xanh Thái Nguyên hiện nay thường có màu xanh đen. Hơi bạc một chút do quá trình đánh mốc. Nếu bạn mua trà Tân Cương Thái Nguyên mà thấy cánh trà bạc nhiều thì cũng không sao cả. Lý do mà cánh trà bạc màu là do quá trình đánh mốc. Đánh mốc là khi lá trà được vò nhiều để làm vỡ lớp biểu bì bảo vệ lá trà. Như vậy thì khi pha trà thì chất trà sẽ dễ tân vào nước hơn do lớp biểu bì đã bị rách. Quá trình đánh mốc làm cho phần nhựa trà’ ứa ra và phủ lên bề mặt lá trà. Khi xao thì phần nhựa trà’ này sẽ bao bọc lá trà. Khiến cho lá trà khô có màu hơi bạc trắng hay mốc’. Nhiều người nghĩ là lá trà Thái Nguyên phải thật xanh và đen thì mới ngon là không đúng. Vì làm trà Thái Nguyên ngon theo đúng cách truyền thống thì cánh trà càng phải bạc màu. Như vậy thì hương trà mới thơm và vị trà mới đượm. Một quan niệm sai lầm khác đó chính là nước trà xanh Thái Nguyên là phải xanh. Màu tự nhiên đúng đó là là màu vàng cho đến màu xanh nõn chuối. Những loại chè Tân Cương Thái Nguyên loại trung bình sẽ có màu vàng. Loại khá sẽ lẫn giữa xanh nõn và vàng. Và thật sự cao cấp sẽ có màu xanh nhạt nõn chuối. Chính vì nhu cầu nước xanh cao mà nhiều nhà sản xuất trà dùng chất phụ gia để nhuộm màu. Để biết trà có nhuộm hay không. Bạn chỉ cần tráng trà là biết ngay. Trà Thái Nguyên được nhuộm màu sẽ có nước tráng màu xanh ngọc rất đẹp. Đến khi pha ra thì nước trà lại trở về màu nguyên thuỷ đó chính là màu vàng. Còn một mẹo’ nữa để cho nước trà Thái Nguyên xanh đó là bón đạm thật nhiều cho cây trà. Lúc này cây trà rất sai lá. Trà làm ra nước cũng rất xanh. Nhưng hương vị thì lại nhạt nhoà. Ở Danh Trà thì chúng tôi luôn tuân thủ một quy tắc mà cha ông để lại, đó là làm trà mộc. Trà Thái Nguyên mộc luôn có hương và màu sắc hoàn toàn tự nhiên. Dùng phụ gia hoá học chỉ mang lại lợi nhuận nhất thời. Chứ về lâu về dài sẽ đánh mất bản sắc, truyền thống và nhất là mất luôn những người khách hàng chân chính. Vị Trà Không chỉ khác biệt về phần hương, trà Thái Nguyên còn hơn hẳn trà xanh ở những vùng khác bằng phần vị. Trà xanh Thái Nguyên có một sự cân bằng của vị ngọt, vị ngon umami, ngậy béo và đắng chát. Sau khi uống thì nước trà sẽ bám vào cổ họng. Khiến cho việc chúng ta thở ra cũng thơm mùi trà. Đồng thời hậu ngọt từ từ xuất hiện. Nên khi nuốt nước bọt thì cứ thấy ngòn ngọt ở cổ họng. Đối với trà Tân Cương Thái Nguyên cao cấp như trà nõn tôm thì đắng chát sẽ rất nhẹ. Còn vị ngon umami, vị ngọt và ngậy béo sẽ nhiều hơn. Những dòng trà xanh Thái Nguyên loại khá thì sẽ đậm trà hơn nhiều. Nhiều người thích uống đậm thì lại thấy không hợp khi uống những dòng trà quá cao uống trà là tuỳ theo gu’. Không hẳn là cứ trà Thái Nguyên càng đắt tiền thì càng tốt. Miễn sao uống thấy ngon và hợp với bản thân mình nhất là được. Trà Khí Trà khí là cảm giác khi chúng ta uống một loại trà nào đó mà đầu óc thấy hưng phấn, minh mẫn và tỉnh táo hơn. Hay nói một cách dân dã là thấy phê’ Thái Nguyên ngon sẽ có hàm lượng lớn các thành phần l-theanine, caffeine và theophylline. Những thành phần này sẽ khiến chúng ta có cảm giác thư giãn, tỉnh táo và hưng phấn những loại trà xanh chất lượng cao như trà xanh Thái Nguyên thì mới có nhiều những thành phần này. Vì thế uống trà Tân Cương Thái Nguyên không chỉ bị nghiện’ về hương vị thơm ngon. Mà chúng ta còn thòm thèm’ cảm giác kể nhiên, đối với một số người nhạy cảm thì hỗn hợp những thành phần trên có thể gây nôn nao hay tim đập nhanh. Hiện tượng này gọi là say trà. CÁC LOẠI TRÀ THÁI NGUYÊN Trà Tân Cương Thái Nguyên Tân Cương là một xã thuộc thành phố Thái Nguyên. Xã là nơi trồng trà đầu tiên của Thái Nguyên nên cây trà ở nơi đây có từ rất lâu đời. Và đã nức tiếng từ xưa. Trà Tân Cương Thái Nguyên thường ngọt, thơm cốm và dễ uống hơn so với những loại trà Thái Nguyên từ vùng khác. Thế nên trà Tân Cương Thái Nguyên rất nổi tiếng và được nhiều người ưa chuộng. Ở Tân Cương nổi tiếng với dòng Trà Móc Câu Thái Nguyên. Cánh trà được vò để đến khi xao khô thành phẩm thì cánh trà cong như móc câu cá. Trà sau đó được đóng gói thành nhiều khối lượng khác nhau, phổ biến nhất là Trà Xanh Tân Cương Thái Nguyên 100g và Trà Xanh Tân Cương Thái Nguyên 500g. Trà La Bằng Khi nhắc đến trà Thái Nguyên thì nhiều người hay nhắc đến trà Tân Cương. Thế nhưng ít ai biết được rằng xã La Bằng thuộc huyện Đại Từ cũng là một vùng trà ngon và nổi tiếng không kém. Một trong tứ đại trà Trà Thái với nhiều người thì trà La Bằng mới loại trà mang nhiều dáng dấp của trà xanh Thái Nguyên truyền thống. Vì vị trà ở nơi đây thường đậm, trà khí nhiều, còn hậu thì dai dẳng. Trà Trại Cài Trại Cài cũng là một vùng trà ngon có tiếng thuộc huyện Đồng Hỷ. Do vùng trà củng nằm ở phía Nam của Thái Nguyên nên trà ở nơi đây cũng gần giống như trà Tân Trại Cài cũng có nước xanh và trong. Hương vị cũng đượm cốm và ngậy béo. Trà Khe Cốc Trà Khe Cốc là một trong những vùng trà Thái Nguyên nổi tiếng. Vùng trà này thuộc huyện Phú Lương, nằm ở phía Đông Bắc của tỉnh Thái của vùng chè được đặt theo con suối Khe Cốc dùng để làm nước sinh hoạt cũng như tưới trà. Trà của Khe Cốc đậm đà và hậu vị ngọt sâu lắng. Khé Cốc cũng là một trong Tứ Đại Trà Thái Nguyên. CÁCH PHA TRÀ BẮC THÁI NGUYÊN Các bước để pha trà Thái Nguyên bao gồm ĐUN NƯỚC dùng nước đun sôi khoảng 80 -100 độ C. TRÁNG TRÀ dùng 10g trà Thái Nguyên cho ấm có dung tích khoảng 500ml. Cho một ít nước vào chỉ đủ ngập lá trà. Sau đó rót đổ nước trà đi ngay để tráng trà. HÃM TRÀ hãm trà trong thời gian từ 3 đến 5 phút. THƯỞNG THỨC rót nước trà ra chén và thưởng thức. Lưu ý dùng nước càng sôi và hãm trà càng lâu thì trà vị lại càng đậm. Một số mẹo nhỏ để bạn pha trà ngon hơn – Dùng nước suối hoặc nước lọc qua lõi lọc thường than hoạt tính, sỏi cát.. để pha trà. Không nên dùng nước khoáng hay nước lọc qua màng RO để pha trà. – Nên dùng bình điện để đun nước. Đến khi nước sôi sẽ tự ngắt. Đun nước bằng bếp ga dẫn đến việc nước quá sôi thì pha trà cũng sẽ ngon hơn. – Đối trà cánh càng nhỏ thì nên dùng nước có nhiệt độ thấp hơn để pha. Khoảng 80 – 90 độ C. – Không nên hãm trà quá lâu. Trà hãm càng lâu càng nóng thì lại càng cháy’ mất hương vị. – Nên sử dụng ấm sứ và ấm đất để pha trà. Không nên dùng ấm nhôm, đồng hay các vật liệu kim loại. LỊCH SỬ VÙNG TRÀ THÁI NGUYÊN Theo Họ Vũ Võ Việt Nam, người đã có công mang những cây trà giống đầu tiên về Thái Nguyên là ông Vũ Văn Hiệt 1883-1945. Ông không phải là người bản địa mà sinh ra và sống cuộc đời tuổi trẻ của ở Hưng Yên. Gia đình ông có truyền thống làm nghề mộc nên từ khi còn nhỏ thì ông Hiệt đã hướng theo nghề của gia đình. Công việc đang thuận lợi thì chiến tranh thế giới lần thứ I nổ ra vào năm 1914. Thực dân Pháp vẫn đang đô hộ nước ta vào thời gian này; nên họ kêu gọi trai tráng cả nước nhập ngũ để gia nhập vào đội lính Lê Dương cùng với những người lính đến từ những quốc gia mà Pháp đô hộ. Do có biết nghề mộc nên cụ Hiệt không phải trận. Thay vào đó ông được làm việc cho xưởng sản xuất máy bay của Pháp. Ở Pháp được khoảng 4 năm thì chiến tranh kết thúc nên ông xin phép về nước để trở về với vợ con đang đợi ở nhà. Những người lính Việt Nam trong hàng ngũ quân đội Pháp. Ảnh FBHaison Để thưởng cho những đóng góp của ông thì chính phủ Pháp giao đất cho ông ở vùng Tân Cương xã Tân Cương, TP Thái Nguyên ngày nay để ông khai phá. Vùng Tân Cương lúc này vẫn còn ít người ở và kinh tế cũng kém phát triển. Thế nên cụ Hiệt đã xin vị quan đứng đầu tỉnh là ông Nghè Sổ tên thật là Nguyễn Đình Tuân sang Phú Thọ để xin cây trà giống về phát triển kinh tế địa phương. Nhờ thờ cúc cụ Vũ Văn Hiệt. Ảnh Được sự cho phép của chính quyền sở tại; cụ Hiệt đã mang những cây trà giống về trồng tại vùng đồi thấp của Tân Cương. Cây trà hợp với thổ nhưỡng nơi đây nên phát triển rất tốt. Đồng thời trà thành phẩm cũng có chất lượng rất cao. Ngoài việc tự trồng và sản xuất thì cụ Hiệt cũng chia sẻ cây giống cũng như phương thức làm trà của mình cho người dân địa phương. Do đó cây trà dần trở thành nguồn thu nhập chính của người dân nơi đây; còn cụ Hiệt được bầu làm tiên chỉ đầu tiên của xã. Chợ Thái khi xưa Cụ Hiệt cũng là người đi đầu trong việc nâng tầm trà Thái Nguyên bằng việc lấy thương hiệu là Chè Con Hạc. Thay đổi quy trình sản xuất trà sang quy mô bán công nghiệp; và mở hiệu trà ở khắp Bắc Trung Nam. Năm 1935, trà của ông thắng giải nhất trong một cuộc thi ở nhà tấu xảo ở Hà Nội nên tên tuổi của ông cùng với trà Thái Nguyên càng thêm lẫy lừng. Nhiều thương lái đến từ Ấn Độ hay Trung Quốc đều tìm đến mua trà của ông. Đến năm 1945 thì do tuổi già cùng với bệnh nặng nên cụ Hiệt qua đời ở tuổi 63. Người dân Tân Cương ghi nhận những đóng góp của ông cho quê hương nên suy tôn ông là ông tổ chè Tân Cương’. Danh Trà là thương hiệu của chúng tôi – những người con họ Vũ – đã có truyền thống làm trà Thái Nguyên từ nhiều đời đến nay. Cây trà đối với chúng tôi không chỉ thu nhập để sống. Mà còn là di sản của cha ông để lại. LỢI THẾ CỦA TRÀ THÁI NGUYÊN TÂN CƯƠNG Văn hoá và kỹ thuật Ở Thái Nguyên thì hình thức đồn điền lớn hay quy mô sản xuất trà theo hình thức công nghiệp là gần như là không tồn tại. Mà theo hình thức là hộ gia đình. Mỗi hộ gia đình chỉ có một vườn trà trà nhỏ vài trăm mét vuông hoặc lớn hơn một chút. Những người chăm sóc cũng như sản xuất trà Thái Nguyên Tân Cương cũng hầu hết là những người trong gia đình. Quy mô nhỏ nên việc quản lý các khâu trồng và chế biến trà Thái Nguyên cũng dễ dàng hơn. Ngoài ra vườn trà Thái Nguyên Tân Cương không chỉ là nguồn thu nhập chính. Mà còn là của cải để lại cho con cháu nên đa phần người làm trà cũng cố gắng bảo tồn vườn của mình một cách tốt nhất có thể. Các hình thức dùng thuốc diệt cỏ hay phân bón hoá học kém chất lượng cũng được hạn chế dùng để bảo vệ chất đất và nguồn nước. Về truyền thống thì trà Thái Nguyên Tân Cương không hẳn là lâu đời nhất ở Việt Nam. Nhưng trong một khoảng thời gian dài thì cây trà gần như là nguồn thu nhập chính của nhiều người dân nơi đây. Cùng với hình thức cha truyền con nối nên kỹ thuật cũng dần hoàn thiện hơn. Chính quyền địa phương cũng ít nhiều có cố gắng trong việc hỗ trợ người nông dân hoàn thiện kỹ thuật canh tác và chế biến. Nhiều lễ hội hay cuộc thi xoay quanh trà Thái Nguyên Tân Cương cũng được tổ chức để tôn vinh những người làm trà tốt. Thời gian này cũng là dịp để những người làm trà gặp gỡ và chia sẻ kinh nghiệm với nhau. Điều kiện tự nhiên Cây trà là một loại cây có khả năng phản ánh môi trường mà chúng lớn lên một cách tốt nhất. Thế nên không có gì ngạc nhiên khi trà Thái Nguyên có chất lượng vượt trội là nhờ vào điều kiện tự nhiên rất tốt ở nơi đây. Đầu tiên là phải nhắc đến chất đất nơi đây. Chất đất của những vùng trà nổi tiếng của Thái Nguyên như Tân Cương; La Bằng hay Hoàng Nông đều có chứa những nguyên tố vi lượng phù hợp cho cây trà phát triển một cách tốt nhất. Vì đất ở nơi đây được hình thành trên nền phù sa cổ và đá cát. Dạng đất sỏi đỏ son pha với đất sét ở nơi đây khiến trà Thái Nguyên luôn có vị đượm và hậu ngọt kéo dài đặc trưng mà chỉ riêng nơi đây có. Thứ hai là phải nhắc đến dãy núi Tam Đảo chạy từ Tây sang Đông chia cắt qua 3 tỉnh là Thái Nguyên; Vĩnh Phúc và Tuyên Quang. Thái Nguyên nằm ở phía bên phải dãy Tam Đảo đường màu vàng. Dãy Tam Đảo giúp che nắng từ hướng Tây. Và chắn hơi nước từ biển Đông bay vào mũi tên xanh. Theo hình trên thì dãy Tảm Đảo đóng vai trò như một lá chắn cao trên để che chắn ánh mặt trời từ hướng Tây. Dãy Tam Đảo còn chặn hơi nước hay mây từ biển thổi vào khiến khu vực phía bên Thái Nguyên luôn có lượng mưa ổn định, nhiệt độ mát mẻ và độ ẩm cao. Hiện tượng mà một bên bên sườn núi mà mưa nhiều hơn và độ ẩm cao hơn, còn một bên thì ít mưa và ấm hơn được các nhà khoa học gọi là orographic lift. Orographic lift là hiện được khi 1 hơi nước bốc hơi từ biển tạo thành mây. 2 mây bay vào đất liền gặp phải dãy núi cao. 3 mây theo triền núi bay lên cao gặp lạnh tạo thành mưa một bên triền núi. 4 khi qua hết đỉnh múi thì mây đã hoá mưa gần hết, khiến sườn bên kia gần như không có mưa và nhiệt độ cao hơn. Giống như bất kỳ cây trồng nào thì cây trà luôn cần mưa. Thường thời điểm mà người trồng trà Thái Nguyên hay gọi là mùa trà chính khoảng tháng 4 âm lịch. Lúc này mưa nhiều và ổn định nên cây trà Thái Nguyên luôn phát triển mạnh. Khoảng từ tháng 9 âm lịch trở đi thì nhiệt độ giảm xuống từ 22°C đến 25°C. Cây trà rất thích khoảng nhiệt độ như thế này nên thời điểm từ tháng 9 đến tết âm lịch thì trà thường có chất lượng tốt nhất trong năm. Dãy Tam Đảo giữ nước giúp bên phía Thái Nguyên luôn có độ ẩm cao. Nhiệt độ theo đó cũng ổn định trong suốt một ngày; chênh lệch nhiệt độ lúc nóng nhất cũng như lúc lạnh nhất cũng chỉ 1-2°C. Cũng giống như con người chúng ta thì nhiệt độ lên xuống thất thường trong ngày thì rất khó chịu. Cây trà Thái Nguyên được phát triển lên trong môi trường có nhiệt độ mát và ổn định trong suốt một ngày. Nên kết quả thành phần dinh dưỡng cũng cao hơn. Đồng thời hương vị cũng tốt hơn trà ở những vùng trà khác ở Việt Nam. Mở rộng diện tích chè sạch, chè đặc sản Thổ nhưỡng, khí hậu đặc thù và kinh nghiệm trồng, chế biến lâu đời của người dân đã làm nên thương hiệu trà Thái Nguyên nổi tiếng lâu nay. Hai năm 2016 và 2017, trà Thái Nguyên đạt giải đặc biệt và giải bạc tại cuộc thi trà đặc sản quốc tế khu vực Bắc Mỹ - Canada; là quà tặng cho đại biểu dự Hội nghị cấp cao APEC năm 2017 tại TP Đà Nẵng, vùng chè Tân Cương TP Thái Nguyên được cấp chứng nhận chỉ dẫn địa lý; gần đây trà tôm nõn của hợp tác xã HTX chè Hảo Đạt ở xã Tân Cương đạt sản phẩm OCOP 5 sao. Điều đó, càng khẳng định giá trị trà Thái Nguyên. Nhiều công đoạn chế biến chè đã được tự động hóa. Vùng đặc sản chè Tân Cương trải rộng trên diện tích gần ha trên đồi thấp, nối tiếp nhau như bát úp, tạo nên bức tranh quê gần gũi và trù phú. Những năm gần đây, phương thức và lực lượng sản xuất ở vùng chè Tân Cương không ngường phát triển, tạo ra sản phẩm trà có chất lượng, được đông đảo người tiêu dùng ưa chuộng. HTX chè Hảo Đạt ở xã Tân Cương đến nay đã xây dựng được vùng nguyên liệu chè đạt tiêu chuẩn VietGAP, chăm sóc, thu hái, chế biến và đóng gói với quy trình khép kín. Giám đốc HTX Chè Hảo Đạt Đào Thanh Hảo chia sẻ “Phát huy lợi thế chè Tân Cương vốn đã nổi tiếng, chúng tôi tạo dựng thương hiệu, phát triển bền vững bằng cách sản xuất chè sạch, bảo đảm an toàn thực phẩm để bảo vệ sức khỏe người tiêu dùng, mẫu mã đẹp, phù hợp nhiều đối tượng để tăng sức cạnh tranh trên thị trường”. Với giá trị của trà mang lại, có những loại trà bán với giá từ 3 đến 5 triệu đồng/kg, nhiều HTX và cơ sở chế biến trà ở Tân Cương đã tích cực đầu tư phương tiện, thiết bị sản xuất, chế biến nhằm giảm chi phí đầu vào, giảm nhân công, tăng năng suất lao động. Cơ sở chè Thắng Hường ở xã Tân Cương đầu tư hơn 300 triệu đồng mua thiết bị bay phun thuốc cho chè đạt hiệu quả cao, dây chuyền chế biến khép kín. Phát huy tiềm năng thế mạnh, xác định là cây trồng chủ lực, năm 2017, Tỉnh ủy Thái Nguyên ban hành “Đề án Nâng cao giá trị gia tăng, phát triển bền vững cây chè và thương hiệu sản phẩm chè Thái Nguyên giai đoạn 2017 - 2020”, đến nay đạt kết quả tích cực. Phó Chủ tịch UBND tỉnh Dương Văn Lượng cho biết “Những năm qua, tỉnh đã tập trung đầu tư, hỗ trợ nhân dân tăng diện tích, thay thế các nương chè cũ bằng các giống chè mới có năng suất, chất lượng tốt hơn; hỗ trợ đầu tư thiết bị tưới tự động, dây chuyền chế biến, đóng gói, cải thiện mẫu mã sản phẩm, quảng bá thương hiệu. Do đó, nghề chè ngày càng phát triển theo hướng bền vững, giá trị chè tăng lên”. Những đồi chè thiết kế đẹp mắt ở thị trấn Sông Cầu, huyện Đồng Hỷ có tiềm năng để phát triển du lịch. Đến nay, Thái Nguyên có gần 18 nghìn ha chè giống mới, chiếm gần 80% diện tích; gần ha chè được cấp chứng nhận VietGAP, hàng trăm ha sản xuất theo tiêu chuẩn hữu cơ. 100% HTX, cơ sở sản xuất lớn áp dụng kỹ thuật, cơ giới hóa vào các khâu sao, vò chè bảo đảm an toàn thực phẩm, đóng gói hút chân không. Để nâng cao năng suất chè, với sự hỗ trợ của tỉnh và các địa phương, người dân chú trọng đầu tư thâm canh, nhất là đầu tư hệ thống tưới tự động, tưới xoay chiều, ứng dụng tưới tiết kiệm đến nay đạt hơn 20% diện tích chè. Chè đủ độ ẩm, cho thu hái 10 đến 11 lứa/năm, tăng 3-3 lứa so trước đây; sản lượng chè chế biến đạt tấn, trong đó sản phẩm chè xanh, chè chất lượng cao đạt hơn 80%. Đẩy mạnh liên kết, xúc tiến thương mại Dưới sườn đông dãy núi Tam Đảo được thiên nhiên ưu đãi cho cây chè phát triển, cách đây hơn mười năm, bà Nguyễn Thị Hải vận động thành lập HTX chè La Bằng, là mô hình liên kết sản xuất kiểu mới ở huyện Đại Từ mang thương hiệu chè La Bằng. HTX chè La Bằng sản xuất chè sạch theo chuỗi, đồng nhất về kỹ thuật trồng, chăm sóc, chế biến, đóng gói nên chất lượng được nâng cao, được người tiêu dùng tín nhiệm, ưa chuộng. Những năm vừa qua, hình thức tổ chức, liên kết sản xuất, chế biến, tiêu thụ trà trên địa bàn tỉnh phát triển mạnh với 38 doanh nghiệp, 77 HTX, 230 làng nghề, làng nghề truyền thống sản xuất, chế biến, kinh doanh chè. Đây là những hình thức tổ chức sản xuất, chế biến và kinh doanh chè đóng vai trò quan trọng, hiệu quả, phù hợp với đặc thù ở một tỉnh có quy mô, diện tích chè lớn nhất cả nước. Khách quốc tế thăm vùng chè đặc sản Tân Cương, TP Thái Nguyên. Bên cạnh những giải pháp nâng cao chất lượng, đa dạng sản phẩm trà, tỉnh Thái Nguyên chú trọng quảng bá thương hiệu, xúc tiến thương mại trà Thái Nguyên bằng các hình thức tổ chức Festival quốc tế trà Thái Nguyên, lễ hội văn hóa trà, hội chợ triển lãm sản phẩm nông nghiệp công nghệ cao, hội chợ triển lãm “Mỗi xã một sản phẩm”... nhằm thúc đẩy tiêu thụ và xuất khẩu trà. Nhờ thực hiện đồng bộ các giải pháp, đến nay giá trị của chè Thái Nguyên được nâng lên, bình quân mỗi ha chè thu được 270 triệu đồng, tăng 170 triệu đồng so năm 2015, một số vùng chè đặc sản như Tân Cương, La Bằng đạt giá trị từ 400 đến 650 triệu đồng/ha. Sản lượng chè qua chế biến năm 2020 đạt đạt gần 50 nghìn tấn, trong đó chè xanh, chất lượng cao chiếm 80%, giá trị ước đạt tỷ đồng, chiếm 44,3% giá trị sản xuất của ngành trồng trọt toàn tỉnh, góp phần tích cực làm giàu cho những người làm nghề chè. Gắn kết với phát triển du lịch Nằm bên cạnh tuyến đường vào vùng đặc sản chè danh tiếng, Không gian văn hóa trà Tân Cương là nơi tỉnh Thái Nguyên tổ chức Festival quốc tế trà định kỳ, được xây dựng tinh tế, mái mầu xanh của lá chè; bên trong bảo tồn, trưng bày nhiều tư liệu, hình ảnh, công cụ chế biến, pha chế, thưởng trà, thể hiện giá trị văn hoá vật thể, phi vật thể của chè. Không gian văn hóa trà Tân Cương trưng bày quá trình hình thành, phát triển của nghề chè, văn hóa thưởng trà, tôn vinh vùng đất và cộng đồng trồng, chế biến chè. Từ đây, du khách tỏa đi các ngả đường đến vùng trung du Tân Cương với những luống chè được trồng thẳng hàng đẹp mắt trên các đồi chè san sát như bát úp nối tiếp nhau trùng điệp để trải nghiệm, tìm hiểu đời sống vật chất, văn hóa của người trồng chè và nghề chè ở địa phương. Cơ sở chè Thắng Hường do anh Trần Văn Thắng, ở xóm Hồng Thái II, xã Tân Cương làm chủ đã đầu tư xây dựng một khuôn viên để du khách chụp ảnh, tham quan nương chè của mình, mời vào nhà thưởng trà và ăn kẹo lạc miễn phí. Từ đây, phóng tầm mắt ra chung quanh là những căn biệt thự kiến trúc đẹp trên những đồi chè. Từ nhà anh Thắng, theo đường bê-tông xuyên qua đồi chè xanh mướt là đến cơ sở sản xuất chè Tiến Yên do anh Bùi Trọng Đại làm chủ lúc nào cũng sẵn sàng đón tiếp du khách trả nghiệm. Anh Đại đầu tư hệ thống đường bê-tông nhỏ, dài gần nghìn mét trong khu vực đồi chè rộng hơn 1ha của mình để du khách tham quan, chụp ảnh; đào ao tạo hồ nước, làm cầu, dựng lều trên hồ để du khách thưởng trà, ngắm cảnh. Tỉnh Thái Nguyên vừa ban hành Đề án Phát triển sản phẩm nông nghiệp chủ lực giai đoạn 2021- 2025, định hướng đến năm 2030, trong đó xác định chè là cây trồng hàng đầu phát huy tiềm năng, lợi thế về đất đai, khí hậu để tăng thu nhập, làm giàu cho nhân dân. Trong đó, tỉnh đẩy mạnh thay thế giống chè cũ bằng những giống chè mới cho năng suất, chất lượng cao gắn với chế biến sâu, đa dạng hóa sản phẩm, tăng sức cạnh tranh, gắn kết với phát triển du lịch nhằm nâng cao giá trị gia tăng của chè.

thái nguyên đệ nhất danh trà